Lào, Việt Nam và một số nước trên thế giới công bố thông qua các tác phẩm, sách chuyên khảo, chuyên luận, công trình khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các ấn phẩm trên Tạp chí, các bài viết đã đề cập, tiếp cận, nghiên cứu đánh giá, phân tích, khái quát từ nhiều góc độ khác nhau như: quản lý công, luật học, kinh tế học, văn hoá học... trên những khía cạnh, cấp độ khác nhau. Cho đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện hệ thống về QLNN về du lịch ở tỉnh Luang Pra Bang nước CHDCND Lào. Nhất là khái quát, phân tích làm rõ các khái niệm, vai trò và nội dung QLNN về du lịch, những quy định của văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến QLNN về du lịch với tính chất là cơ sở lý luận cũng như thực tiễn về hoạt động QLNN về du lịch ở tỉnh Luang Pra Bang nước CHDCND Lào hiện nay. Từ đó, đề xuất những phương hướng và giải pháp cụ thể để QLNN về du lịch ở tỉnh Luang Pra Bang hiện nay, nhằm thúc đẩy sự phát triển du lịch tỉnh Luang Pra Bang, để du lịch này thực sự trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh trong tương lai gần.
Chương 2
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH
2.1. Tổng quan về du lịch
2.1.1. Khái niệm về du lịch
Ngày nay du lịch trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến. Hiệp hội lữ hành quốc tế đã công nhận du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới vượt lên cả ngành sản xuất ô tô, thép điện tử và nông nghiệp. Vì vậy, du lịch đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới. Thuật ngữ du lịch đã trở nên khá thông dụng, nó bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là đi một vòng. Du lịch gắn liền với nghỉ ngơi, giải trí, tuy nhiên do hoàn cảnh, thời gian và khu vực khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau nên khái niệm du lịch cũng không giống nhau.
Du lịch là hoạt động đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử tồn tại và phát triển của loài người. Lúc đầu có thể là những hiện tượng riêng rẽ và cá biệt, sau đó trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến và trở thành nhu cầu của con người. Song để cho du lịch có thể phát triển thì cần có các điều kiện để phát triển du lịch, các lĩnh vực kinh doanh trong du lịch cũng như việc khai thác các loài hình du lịch để thỏa mãn nhu cầu của con người trong chuyến đi. Đồng thời, thấy được các tác động của du lịch về kinh tế, văn hoá - xã hội và môi trường.
Khái niệm về du lịch có nhiều cách hiểu do được tiếp cận bằng nhiều cách khác nhau, sau đây là một số quan niệm về du lịch theo các cách tiếp cận phổ biến.
Du lịch là một hiện tượng: Trước thế kỷ XIX đến tận đầu thế kỷ XX, du lịch hầu như vẫn được coi là đặc quyền của tầng lớp giàu có, quý tộc và người ta chỉ coi đây như một hiện tượng cá biệt trong đời sống kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ này, người ta coi du lịch như một hiện tượng xã hội góp
Có thể bạn quan tâm!
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Hoạt Động Du Lịch
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Quản Lý Nhà Nước Đối Với Du Lịch
- Đánh Giá Các Công Trình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài Và Những Vấn Đề Cần Tiếp Tục Nghiên Cứu
- Lý Luận Quản Lý Nhà Nước Về Du Lịch
- Xây Dựng Và Tổ Chức Thực Hiện Chiến Lược, Quy Hoạch, Kế Hoạch Phát Triển Du Lịch
- Tổ Chức Đào Tạo, Bồi Dưỡng Nguồn Nhân Lực Du Lịch
Xem toàn bộ 196 trang tài liệu này.
phần làm phong phú thêm cuộc sống và nhận thức của con người. Đó là hiện tượng con người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên để đến một nơi xa lạ vì nhiều mục đích khác nhau ngoại trừ mục đích tìm kiếm việc làm và ở đó họ phải tiêu tiền mà họ đã kiếm được ở nơi khác. Các Giáo sư Thụy Sĩ là Hunziker và Krapf đã khái quát: Du lịch là tổng hợp các hiện tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ việc đi lại và lưu trú của những người ngoài địa phương - những người không có mục đích định cư và không liên quan tới bất cứ hoạt động kiếm tiền nào. Với quan niệm này, du lịch mới được giải thích ở hiện tượng đi du lịch, tuy nhiên đây cũng là một khái niệm làm cơ sở để xác định người đi du lịch và là cơ sở để hình thành cầu về du lịch sau này.
Du lịch là một hoạt động: Theo Mill và Morrison du lịch là hoạt động xảy ra khi con người vượt qua biên giới một nước, hay ranh giới một vùng, một khu vực để nhằm mục đích giải trí hoặc công vụ và lưu trú tại đó ít nhất 24 giờ nhưng không quá một năm. Như vậy, có thể xem xét du lịch thông qua hoạt động đặc trưng mà con người mong muốn trong các chuyến đi. Du lịch có thể được hiểu là hoạt động của con người nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời gian nhất định. Với cách tiếp cận này, du lịch mới chỉ được giải thích dưới góc độ là một hiện tượng, một hoạt động thuộc nhu cầu của khách du lịch.
Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động du lịch được mở rộng, phức tạp và đa dạng, những quan niệm về du lịch ngày càng hoàn thiện, phản ánh khá đầy đủ nội hàm hoạt động của nó.
Trong Tuyên ngôn Malila về du lịch (1980) thì: Du lịch được hiểu như hoạt động chủ yếu trong đời sống của các quốc gia do hiệu quả trực tiếp của nó trên các lĩnh vực xã hội, văn hoá, giáo dục và kinh tế của các quốc gia và trong quan hệ quốc tế trên thế giới. Sự phát triển du lịch gắn với sự phát triển của kinh tế - xã hội của các quốc gia và phụ thuộc vào việc con người tham
gia vào nghỉ ngơi và vào kỳ nghỉ, tự do đi du lịch, trong khuôn khổ thời gian tự do và thời gian nhàn rỗi mà du lịch nhấn mạnh tính nhân văn sâu sắc.
Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ dưỡng, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức - văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa [31, tr.15].
Tại Hội nghị quốc tế và thống kê du lịch ở Ottawa - Canada (6/1991) đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên của mình trong một khoảng thời gian nhất định, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm” [30, tr.19].
Theo Tổ chức Du lịch thế giới: Du lịch bao gồm tất cả các hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư [9].
Với các định nghĩa khác nhau về du lịch, Luật Du lịch Việt Nam năm 2017, Khoản 1 Điều 3 đã ghi: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác” [24].
Luật Du lịch Lào năm 2005, tại Chương I, Điều 2 đã ghi: Du lịch là cuộc hành trình khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình đến sứ khác hoặc quốc gia khác để tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, giao lưu văn hoá, thể thao,
phát triển thể chất và tinh thần, khám phá nghiên cứu, trưng bày, hội họp… Loại trừ mục đích tìm việc làm và hành nghề để kiếm tiền [79, tr.1].
Trên cơ sở tổng hợp những quan điểm lý luận và thực tiễn về du lịch trên thế giới và trong nước, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội đưa ra định nghĩa: “Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu và các nhu cầu khác của khách du lich. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân doanh nghiệp ” [3, tr.20].
Qua một số định nghĩa trên, có thể nói rằng du lịch là một dạng hoạt động đặc thù, bao gồm nhiều chủ thể tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Du lịch vừa có đặc điểm của ngành kinh tế, lại có đặc điểm của ngành văn hóa, xã hội.
Nghiên cứu định nghĩa khác nhau về du lịch, để có được cách tiếp cận bao quát và đầy đủ hơn về du lịch như một ngành kinh tế của địa phương và quốc gia, khái niệm du lịch sử dụng trong luận án được hiểu như sau:
Du lịch là một ngành kinh tế bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp và của người dân, nhằm đạp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểm và nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho địa phương và nước làm du lịch, cho bản thân doanh nghiệp và người dân.
2.1.2. Đặc điểm của du lịch
Theo định nghĩa trên, có thể thấy “Du lịch” có những đặc điểm nổi bật sau đây:
- Tính nhạy cảm: Do sản phẩm của ngành du lịch mang tính tổng hợp cao nên so với các ngành khác, du lịch thể hiện đặc điểm này rõ nét hơn. Một
chương trình du lịch được nhà cung cấp chào bán khi thực hiện phải đảm bảo sự chính xác về thời gian và cả tính khoa học… có như vậy du khách mới có thể hài lòng về nơi ăn, nghỉ, các chương trình vui chơi, giải trí… và mới cảm nhận được nhiều điều thú vị trong chuyến đi đó. Một sáng kiến, sự thông minh hóm hỉnh, bất ngờ của hướng dẫn viên có thể làm tăng hiệu quả chuyến đi nhờ ấn tượng tốt, ngược lại chỉ một thay đổi nhỏ của một khâu nào đó, cũng có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chuyến đi. Hiện nay, những biến động chính trị, kinh tế - xã hội khác cũng là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hiệu quả kinh doanh du lịch như: những bất ổn về chính trị của vùng hay quốc gia, phát sinh dịch bệnh hoặc tình hình an ninh trật tự…
- Tính thời vụ: Do chịu ảnh hưởng của các yếu tố địa lý, tự nhiên biến đổi và thất thường nên hoạt động kinh doanh du lịch có tính thời vụ rõ rệt. Nắm được điểm này sẽ giúp các nhà quản lý tạo định hướng đầu tư, thời điểm kinh doanh và loại hình dịch vụ, đồng thời cũng tạo lập được kế hoạch cho một chu kỳ kinh doanh, giữa hoạt động trong nội bộ ngành và hoạt động kinh doanh du lịch nhằm thu được hiệu quả cao. Đối với du khách, sẽ giúp cho việc lựa chọn chương trình du lịch phù hợp với điều kiện thời gian, sức khỏe, tài chính… một cách tốt ưu.
- Tính tổng hợp: Xuất phát từ nhu cầu mang tính tổng hợp cao của du khách mà hoạt động du lịch có tính chất đặc thù nay. Có thể nói không có ngành nào có đặc điểm tổng hợp rõ nét như du lịch. Bởi mỗi một nhu cầu của du khách đều trở thành một công đoạn trong chuỗi các dịch vụ mà ngành phải cung ứng như: ăn, uống, đi lại, tham quan, lưu trú… mà người làm du lịch phải cung cấp một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời, phù hợp với du khách.
- Tính đa ngành: Ngoài những yêu cầu trên đối với một chuyến du lịch, du khách đòi hỏi phải có những dịch vụ không thể thiếu như: các dịch vụ của ngân hàng, hải quan, cửa khẩu, bưu chính viễn thông… mọi dịch vụ này phải hoạt động một cách đồng bộ và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, cùng hướng
tới việc thoả mãn nhu cầu của khách. Hoặc du khách sẽ mất đi cảm giác yên tâm khi vắng bóng của các lĩnh vực bảo hiểm, dịch vụ y tế, đảm bảo giao thông, an ninh trật tự, vệ sinh môi trường… tại nơi tham quan, dịch vụ. Chính đặc điểm này có tác dụng thúc đẩy sự phát triển đối với các ngành kinh tế, văn hoá - xã hội; đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng không chỉ giữa các khách sạn, nhà hàng, dịch vụ vận chuyển… trong nội bộ ngành du lịch mà đòi hỏi phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành có liên quan. Mọi sự toan tính lợi ích cục bộ hoặc sự phối hợp không đồng bộ đều liên quan mật thiết đến hiệu quả không chỉ riêng của ngành du lịch mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế
- xã hội của cả vùng hay quốc gia.
- Tính liên vùng: Do nhu cầu khám phá, hưởng thụ của du khách luôn biến động, đòi hỏi nhà cung cấp dịch vụ hay hoạt động trong ngành phải luôn đưa ra được các gói sản phẩm du lịch hấp dẫn, tránh sự nhàm chán, đơn điệu. Chính điều đó đã hối thúc các nhà làm du lịch phải có sự liên kết, các vùng làm du lịch phải có sự gắn kết, để có thể đưa ra được những tour, tuyến, những sản phẩm du lịch luôn hấp dẫn du khách, có như vậy mới thu hút được khách.
- Tính chi phí: Mục đích đi du lịch của du khách cơ bản là hưởng thụ các sản phẩm du lịch, chứ không phải với mục tiêu kiếm tiền. Du khách sẵn sàng trả khỏang phi trong chuyến đi của mình về các khoản dịch vụ như: ăn, uống, ở đi lại, và nhiều khách nhằm thực hiện mục đích vui chơi, giải trí, hưởng thụ vẻ đẹp của thiên nhiên, giá trị văn hoá, lịch sử…
Hiểu rõ đặc tính này, để các quốc gia, địa phương, các nhà kinh doanh có biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, đa dạng các loại hình dịch vụ, nhằm thu hút khách du lịch, kéo dài thời gian lưu trú của du khách.
2.1.3. Vai trò của du lịch về sự phát triển kinh tế - xã hội
Trong thời đại ngày nay, du lịch phát triển sẽ dẫn tới hình thành cơ cấu các tổ chức kinh doanh du lịch lấy lợi nhuận làm mục tiêu hoạt động, khi đó
du lịch trở thành một ngành kinh tế, việc mua và bán các sản phẩm du lịch trở thành quá trình vận hành kinh tế du lịch. Ngày nay du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng đối với thu nhập quốc dân ở nhiều quốc gia trong đó có CHDCND Lào, vai trò và tầm quan trọng của du lịch được thể hiện trên cả lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội:
- Vai trò đối với chính trị
Du lịch góp phần củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại, tăng cường ự hiểu biết về đất nước, con người, lịch sử truyền thống dân tộc, về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội của các nước mà du khách đến thăm. Du lịch quốc tế làm cho con người sống ở các khu vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau. Năm 1979, Đại hội của Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) đã thông qua Hiến chương du lịch và chọn ngày 27/09 làm ngày du lịch thế giới với các chủ đề cho từng năm, như “Du lịch không chỉ là quyền lợi, mà còn là trách nhiệm của mỗi người”, “Du lịch là giấy không hành của hòa bình”…, kêu gọi hàng triệu triệu người quý trọng lịch sử, văn hóa và truyền thống của các quốc gia, giáo dục long mến khách và trách nhiệm của chủ nhà đối với khách du lịch, tạo nên sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các dân tộc [30, tr.14-15].
- Vai trò đối với kinh tế.
Du lịch đóng vai trò lớn đối với sự phát triển kinh tế. Thu nhập du lịch tăng lên hàng năm bất chấp suy thoái kinh tế và hững khủng hoảng về tài chính toàn cầu. Theo thống kê của Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch, năm 2016, lượng khách quốc tế đến Lào đạt 4,238,719 lượt, đem về cho đất nước 595,909,127 đô la. Năm 2017, đón 3,868,831 lượt khách quốc tế, thu nhập du lịch đạt 650 đô la … [50].
Du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước, góp phần tạo ra thu nhập quốc dân, làm tăng thu nhập quốc dân, là động lực thúc đẩy sự phát triển các ngành giao thông vận tải, bưu điện, ngân hàng, xã hội, văn hóa