Di Sản Phi Vật Thể Lễ Hội Kiếp Bạc


Nghi môn đền là công trình kiến trúc đồ sộ hoàng tráng, thiết kế kiểu cổng thành dạng bức cuốn thư với ba cửa vòm và hai trụ biểu lớn. Đây là bức tranh sinh động hội đủ tứ linh, tứ quý, khái quát cả âm dương, trời đất, thiên nhiên, con người nơi đất Thánh. Đáng chú ý là biểu tượng hình tròn đặt ở tư thế long chầu trên đỉnh nghi môn. Thời Trần mặt tròn này đã mang bóng dáng của vòng tròn vũ trụ. Đó là 1 vòng tròn sinh lực đang bốc lửa tượng cho bầu trời, phần trên là hội tụ của hai yếu tố âm - dương, bao phủ lấy phần dưới, tượng cho sự giao hoà của vũ trụ, nhằm cầu sinh sôi phát triển. Phần dưới vòng tròn vũ trụ là từng cặp tứ linh đối xứng trong tư thế “long mã hà đồ”, “thần qui lạc thư”, “phượng hàm thư”... là điểm nhấn cho các bức hoành phi, câu đối ca ngợi Đức Thánh Trần: “Dữ thiên vô cực” (sự nghiệp hiển hách với đất trời), “Âm dương hợp đức” (Đức của Thánh hợp với trời đất), “Nhạc độc chung linh” (sông núi hun đúc lên khí thiêng) và “Trần Hưng Đạo Vương từ” (đền thờ Trần Hưng Đạo). Mặt sau nghi môn trang trí từng cặp tiêu cảnh biến thể từ tứ quý “đào - tùng lộc”, “trúc tước - mai điểu”, “tiêu tượng - hồng trĩ”, “cúc - điệp” thể hiện cho sự trường tồn bền vững. Ngày nay, nghi môn là công trình kiến trúc độc đáo, hiếm thấy trong các công trình văn hoá cổ ở khu vực Bắc Bộ. Qua nghi môn là tả - hữu Thành Các. Công trình được tôn tạo thời Nguyễn, là nơi các quan hàng tỉnh về nghi ngơi, chuẩn bị các kỳ lễ hội.

Trong sân là giếng Mắt Rồng. Giếng nằm ở trung tâm thung lũng dãy núi Rồng do mạch nước ngầm từ núi chảy ra gọi là giếng mắt rồng. Tương truyền, Giếng xây dựng thời Trần gắn với tên tuổi của danh tướng Yết Kiêu - Người có công tìm và phát hiện ra nguồn nước. Đây là nước giếng thiêng, trong mát đã tiếp sức cho quân sỹ nhà Trần mỗi khi ra trận. Sau này, nước giếng được dùng trong các nghi lễ cúng, tế của đền.

Giữa sân là Nhà Bạc. Công trình nằm trên đường Thần đạo, là cầu nối giữa nghi môn và đền chính, mang ý nghĩa như một tắc môn chắn tà khí cho Đền. Đây là nơi tổ chức các nghi lễ trọng thể của Nhà nước dâng hương tưởng niệm anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương. Hai bên sân có tả, hữu hành lang là nơi dành cho nhân dân thập phương nghi ngơi, tu sửa lễ phẩm trước khi vào lễ Thánh.


Đền chính gồm: Tiền tế, Trung từ, Hậu cung. Toà Tiền Tế có ban thờ Công đồng Trần triều. Trung từ thờ vọng ngai, bài vị tứ vị hoàng tử (4 vị con trai của Trần Hưng Đạo - Hưng Vũ Vương Trần Quốc Hiến, Hưng Hiến Vương Trần Quốc Nghiễn, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, Hưng Trí Vương Trần Quốc Uy), thờ tượng Điện suý Phạm Ngũ Lão (con rể thứ 2), hai bên tả - hữu thờ vọng quan Nam Tào, quan Bắc Đẩu. Toà hậu cung gồm: Cung chính thờ tượng Đức Thánh Trần; cung cấm thờ vọng gia tiên Đức Thánh, tượng Thiên Thành công chúa phu nhân, hai bên thờ tượng Quyên Thanh công chúa - cô đệ nhất và Anh Nguyên quận chúa - cô đệ nhị.

Trong đền còn lưu giữ nhiều hiện vật, cổ vật quý như 5 pho tượng đồng, sơn son thiếp vàng, đúc cuối thế kỷ XIX, hoành phi, câu đối, bia đá... đặc biệt là Thánh Ấn nhà Trần. Bất cứ ai hành hương về đền Kiếp Bạc đều mong xin được ấn dấu nhà Ngài, mang bên mình cầu an.

b) Đền Nam Tào: Đền Nam Tào thờ Thiên quan Nam Tào tọa lạc trên đỉnh núi Nam Tào (còn gọi là Dược Sơn) ở độ cao 42 m, thuộc thôn Dược Sơn, Hưng Đạo, Chí Linh, Hải Dương, cách đền Kiếp Bạc 500 m về phía Tây Nam. Qua tư liệu khảo cổ học, văn bia, truyền thuyết dân gian thì di tích xây dựng vào thời Trần.

Với ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng của di tích, năm 2006, UBND tỉnh Hải Dương ra quyết định số 2532/QĐ-UBND cho phép quy hoạch, xây dựng, tu bổ tôn tạo di tích đền Nam Tào, gồm 11 hạng mục chính với kinh phí đầu tư trên 10 tỷ đồng.

Đền Nam Tào hiện nay được xây dựng trên một không gian thoáng với diện tích trên 2000m2 gồm các hạng mục công trình: trụ biểu, tam quan, gác chuông, gác trống, tả hữu hành lang, đền chính và hậu đường. Đền chính kiến trúc hình chữ Đinh gồm tiền bái và hậu cung.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 228 trang tài liệu này.

Trong quần thể di tích Kiếp Bạc, đền Nam Tào có ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Nam Tào là vị thần trong hệ thống điện thần của Đạo giáo có nhiệm vụ coi sự sống ở chốn trần gian. Nam Tào giữ sổ sinh, đứng chầu bên trái giúp việc Ngọc Hoàng Thượng Đế trên thiên đình. Hệ thống thờ tự ở đền Kiếp Bạc gồm bộ ba: Nam Tào -


Quản lý lễ hội truyền thống gắn với phát triển sản phẩm du lịch qua khảo sát lễ hội kiếp bạc Hải Dương và lễ hội tịch điền Hà Nam - 25

Trần Hưng Đạo - Bắc Đẩu; là hiện tượng đặc biệt - một hình thức tôn vinh cao nhất dành cho Trần Hưng Đạo, sánh Ngài với Ngọc Hoàng thượng đế.

c) Đền Bắc Đẩu: Đền Bắc Đẩu toạ lạc trên đỉnh núi Bắc Đẩu ở độ cao 60,5 m, cách đền Kiếp Bạc 500 m về phía Đông bắc. Phía Bắc đền là thung lũng Vạn Yên - lưu giữ nhiều dấu tích gắn liền với Hưng Đạo Vương trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông như: Sinh Từ, Sông Vang, Xưởng Thuyền, Hành Cung.

Năm 2006, UBND tỉnh Hải Dương ra quyết định số 2532/QĐ-UBND cho phép quy hoạch, xây dựng, tu bổ tôn tạo di tích đền Bắc Đẩu. Đền hiện nay được xây dựng trên đỉnh núi Bắc Đẩu trong một không gian thoáng rộng gồm 11 hạng mục chính với bố cục kiến trúc và họa tiết trang trí giống với đền Nam Tào.

d) Sinh Từ: Di tích Sinh Từ cách đền Kiếp Bạc 800 m về phía Đông bắc. Tương truyền, sau khi Hưng Đạo Đại Vương qua đời, nhân dân đã chuyển vật liệu của Sinh từ về xây dựng tại vị trí đền Kiếp Bạc hiện nay. Đường vận chuyển vật liệu ra đền Kiếp Bạc gọi là đường Gánh gạch. Vì thế, khu di tích Sinh từ nay chỉ còn là phế tích, nhưng lại là di tích khảo cổ học có giá trị đặc biệt quan trọng ở khu di tích Kiếp Bạc.

e) Vườn thuốc Dược Sơn: Dược Lĩnh Cổ Viên là vườn thuốc nam do Trần Hưng Đạo trồng trên núi Dược Sơn. Núi Dược Sơn nằm ở phía nam đền Kiếp Bạc với diện tích xấp xỉ 10.000 m2. Theo thống kê, trên núi Dược Sơn và một số ngọn núi lân cận ở khu di tích Kiếp Bạc hiện nay còn khoảng trên 300 vị thuốc như: tán tía, cam thảo, hoàng chỉ nam... Qua khảo sát của Viện Y học cổ truyền trung ương, ngành y tế địa phương cho thấy những cây thuốc trên núi Dược Sơn có giá trị cao về y học, có thể chữa được nhiều bệnh: phong tê thấp, xơ gan cổ chướng, viêm họng, sâu răng, thận, thoái hoá cột sống, hậu sản, thương hàn…nhân dân địa phư- ơng cũng như khách thập phương vẫn có tục lệ về xin lá thuốc tại Dược Sơn để chữa bệnh. Vườn thuốc Dược Sơn đã và đang từng bước được khôi phục.

f) Ao Cháo, hố Chân Bia: Qua gò đất chữ vương thẳng trục với đền Kiếp Bạc 500m về phía Đông là di tích ao Cháo - hố Chân Bia. Ao Cháo - hố Chân Bia rộng hơn 600m2 nằm phía dưới chân núi Trán Rồng, thuộc thôn Bắc Đẩu, xã Hưng Đạo,


thị xã Chí Linh.Di tích Ao Cháo - hố Chân Bia bị phá huỷ nặng nề, dấu tích còn lại chỉ là một số ít nền móng kiến trúc, gạch, ống nước, kè…mang đặc điểm thời Trần. Đặc biệt là trong thung lũng này còn 4 gò đất nổi cao khoảng 1m, mỗi gò rộng khoảng 300 – 500 m2, cách nhau từ 100 – 150 m. Gò ngoài cùng phía Đông bắc là nơi đặt Sinh Bi.Hiện nay, Ao Cháo - hố Chân Bia là di tích có giá trị khảo cổ học của khu di tích Kiếp Bạc cần được quan tâm bảo vệ, nghiên cứu.

g) Sông Vang, Xưởng Thuyền: Sông Vang, Xưởng Thuyền nằm trên cánh đồng Vạn Yên cách đền Kiếp Bạc 1.000 m về phía Bắc. Sông Vang là đường giao thông thuỷ quan trọng nối trung tâm Đại bản doanh (thung trong) của Đức Thánh Trần với Lục Đầu Giang và ngòi Mô. Sông Vang dài khoảng 1 km, từ phố Vạn chảy qua xóm Hống. Xung quanh sông là hệ thống căn cứ quân sự liên hoàn như: Trại lính, Cửa khâu, Ao vải, Lò gốm…Hiện nay, các địa danh trên chỉ còn là phế tích.

h) Hang Tiền: Hang Tiền nằm dưới chân núi Bắc Đẩu, cách đền Kiếp Bạc 500 m về phía Bắc. Tương truyền hang Tiền là nơi để ngân khố của phủ đệ Vạn Kiếp phục vụ kháng chiến. Hang rộng khoảng 1 ha, còn dấu tích các vòm hầm đào vào núi cao 1,5 m; rộng 1,3 m. Hiện nay di tích nằm trong khu vực đất thổ cư của người dân địa phương. Di tích được xếp vào các hạng mục tu bổ, tôn tạo đặc biệt trong quy hoạch tổng thể khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc giai đoạn 2006 - 2020.

i) Hố Thóc: Di tích Hố Thóc thuộc địa phận xã Lê Lợi, cách đền Kiếp Bạc 2km về phía Đông Nam. Nằm trong thung lũng lòng chảo rộng 1ha, xung quanh có núi bao bọc, đây là địa hình thuận lợi được Hưng Đạo Vương chọn là nơi cất giữ lương thảo. Lương thực từ các vùng lân cận do Thiên Thành Công chúa, phu nhân Trần Hưng Đạo phụ trách thu gom về Hố Thóc dự giữ và cất giấu.

k) Cồn Kiếm: Trên sông Lục Đầu, trước cửa đền Kiếp Bạc có một cồn cát chạy dài 200 m gọi là Cồn Kiếm. Tương truyền sau khi đánh thắng giặc Nguyên Mông đem lại thái bình cho đất nước. Hưng Đạo Vương đã thả thanh kiếm xuống dòng sông, sau này thanh kiếm báu đã hiện hình thành một bãi bồi chạy dài rất giống hình thanh kiếm, dân gian gọi đó là Cồn Kiếm.Hiện nay, tại Lục Đầu Giang vẫn diễn ra nhiều nghi lễ cổ truyền gắn với lễ hội đền Kiếp Bạc như: bơi chải, lễ cầu


siêu và thả hoa đăng, đặc biệt là lễ hội quân trên sông Lục Đầu với hàng chục chiếc thuyền lớn của nhân dân ở các làng chài ven biển tham gia, đã trở thành nét đặc trưng của lễ hội mùa thu Kiếp Bạc.

Ngoài các di tích trên còn hệ thống các di tích liên quan như: Viên Lăng, di tích xóm Hống, Trạm Điền, Hành Cung… hiện đang được trùng tu, tôn tạo thuộc quy hoạch tổng thể Côn Sơn - Kiếp Bạc từ nay đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

1.3. Di sản phi vật thể lễ hội Kiếp Bạc

Lễ hội Kiếp Bạc là một lễ hội độc lập những không tách rời Lễ hội Côn Sơn vì những liên quan của hai cụm di tích này. Trên thực tế, quản lý và tổ chức hai lễ hội này thường gộp chung thành Lễ hội Côn Sơn – Kiếp Bạc nhằm phát huy tối đa nguồn lực di sản tạo thương hiệu lễ hội truyền thống cho tỉnh Hải Dương. Từ đó có cách đặt tên có tính phân biệt: Lễ hội mùa xuân và Lễ hội mùa thu. Lễ hội Kiếp Bạc chính là lễ hội mùa thu. Hầu hết các phần lễ, phần hội tại các lễ hội mùa thu được tổ chức trong vòng 10 năm trở lại đây đều được phục dựng lại. Nổi bật với những lễ hội/hoạt động sau:

a) Lễ hội đền Kiếp Bạc: Trong tâm thức dân gian, sau quá trình “thiêng hóa”, Ngài đã trở thành một vị Thánh - Đức Thánh Trần - có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh người Việt, được các triều đại phong kiến rất nhiều lần sắc phong bậc “Thượng đẳng thần”. Không chỉ đứng ở bậc cao nhất của bảng phong thần và được thờ ở đền Kiếp Bạc - ngôi đền được xây ngay trên mảnh đất xưa kia dựng phủ đệ của mình, Đức Thánh Trần còn được thờ phụng ở nhiều nơi trên địa bàn cả nước và trở thành một tín ngưỡng riêng của người Việt.Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần từ lâu đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam và có sức lan tỏa mạnh mẽ, khiến cho ngày 20 tháng Tám (âm lịch) vốn là ngày mất của Trần Hưng Đạo không chỉ đơn thuần là ngày giỗ, ngày tưởng niệm ông mà còn là dịp để người dân được thỏa mãn nhu cầu văn hóa, tâm linh của mình; từ mọi vùng miền, họ đến để cầu xin những mong ước của mình và tin tưởng chắc chắn rằng, với quyền năng siêu nhiên như Đức Thánh Trần, lòng mong


mỏi cũng như những cầu xin của họ sẽ được đáp ứng. Vì lẽ ấy, lễ hội đền Kiếp Bạc dần được hình thành và trường tồn cùng thời gian.

b) Hội quân trên sông Lục Đầu: Lễ rước thuỷ - hội quân trên sông Lục Đầu ngoài phần nghi lễ tâm linh, đây còn là diễn xướng độc đáo, tái hiện lại cảnh hội quân trên sông Lục Đầu, nhắc nhớ lại chiến thắng hào hùng của quân dân nhà Trần dưới sự chỉ huy thần thánh của Đức Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo tại đại bản doanh Vạn Kiếp. Đây là một hoạt cảnh lớn, cũng là cuộc biểu trưng lực lượng, sức mạnh của thế hệ con cháu hôm nay kính thỉnh tri ấn trước anh linh của Đức Thánh và thành kính mong Ngài chứng dám, phù hộ cho quốc thái dân an, giang sơn, bền vững, biển dảo bình yên; cho nhân dân mùa màng tuơi tốt, bội thu tôm cá...

Để tổ chức lễ hội quân này, việc chuẩn bị lực lượng tham gia là rất quan trọng, vì thế, Ban Tổ chức đã chọn 40 thuyền của ngư dân Quần Mục, Kiến Thuỵ (Hải Phòng), 40 thuyền của ngư dân Kênh Giang (Chí Linh, Hải Dương), 200 võ sinh phái võ Nhất Nam, 100 tay võ gậy ở thị trấn Gia Lộc (Hải Dương), 300 quân cờ, đội múa rồng và dàn trống trận Vạn Kiếp.

Dưới sông, các thuyền được chia thành 2 đội (mỗi đội 40 thuyền), tập kết ở hai đầu sông trước cửa đền Nam Tào và Bắc Đẩu. Mỗi thuyền cắm 10 lá cờ thần, căng tấm biển lớn ghi tên hiệu của vị tướng chỉ huy: Đội 1 (12 thuyền, mang số hiệu thuyền màu đỏ) gồm thuyền của 12 vị tướng tiến về tập kết ở bến Nam Tào; đội 2 (12 thuyền, mang biển hiệu thuyền màu vàng) gồm thuyền của 12 vị tướng tập kết ở bến Bắc Đẩu.Hai thuyền chủ trang trí thân rồng, trên mỗi thuyền là một tấm biển lớn mang hàng chữ Hán: Âm Dương Hợp Đức và Nhạc Độc Chung Linh.

Có thể thấy lễ hội quân trên sông Lục Đầu là hình bóng cuộc ra quân xưa với nhiều tướng lĩnh cùng các đạo quân gồm đủ các thành phần. Sự hùng hậu và rực rỡ của nghi lễ tạo lên không khí tưng bừng của ngày lễ xuất quân, làm sống lại những chiến công hiển hách của Hưng Đạo đại vương. Điều đó đã góp phần giáo dục, khích lệ các thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước thời hiện đại.

c) Lễ hội cầu an, hội hoa đăng trên sông Lục Đầu: Thực hiện đề án nâng lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc (2006 - 2010), nghi lễ cầu siêu - hội hoa đăng trên sông


Lục Đầu đã được phục hồi, trở thành một trong những điểm nhấn quan trọng của lễ hội.Sau khi thực hiện những nghi lễ mang đậm tính tôn giáo như khoá lễ, phần chính kinh, phần hồi hướng và chạy đàn sẽ đến phần quan trọng nhất của lễ này, đó là thả hoa đăng.Nghi thức truyền đăng theo trình tự này diễn ra từ 10 - 15 phút. Khi đó, tại Cồn Kiếm, 2000 hoa đăng được thắp lên, pháo bông bừng sáng... Dưới sông, từng đoàn thuyền chở đầy ắp hoa đăng, lung linh những cánh hoa rực rỡ sắc màu chở tình cảm tri ân của các thế hệ ở trần gian gửi gắm về các linh hồn nơi thế giới âm.Lễ cầu an và hội hoa đăng trên sông Lục Đầu để lại ấn tượng sâu sắc, đáp ứng được nhu cầu tâm linh của nhân dân thập phương; là nghi lễ đặc trưng của lễ hội đền Kiếp Bạc trong hệ thống các lễ hội tôn vinh Đức Thánh Trần.

d) Nghi lễ và diễn xướng hầu đồng tại Kiếp Bạc: Trong tâm thức của người Việt, Trần Hưng Đạo được coi là người Cha thiêng liêng, sánh với Ngọc Hoàng thượng đế. Ngài là sự hiển hóa của Thanh Y Đồng Tử nên có đủ quyền năng cứu nhân độ thế, có khả năng diệt trừ tà ma và pháp thuật chữa trị bệnh tật…Những người theo hầu về Đức Thánh Trần gọi là Thanh đồng. Vào dịp lễ hội (và những thời điểm cấp thiết khác), Thanh đồng thực hiện nghi lễ này để giúp người có nhu cầu tấu trình những sở nguyện của mình tới Đức Thánh. Hầu đồng ở Kiếp Bạc xưa chủ yếu diễn ra dưới hai hình thức là hầu đồng thánh và hầu đồng tà. Hầu đồng thánh là xin thần dược để chữa bệnh. Hầu đồng tà là xin tróc trừ tà ma.Vào những ngày hội, các cơ cánh, thanh đồng, dù xa, dù gần đều tề tựu về đền Kiếp Bạc mở canh đồng, lập trai đàn làm việc Thánh. Hầu Thánh ở đấy được xem là nét văn hoá tâm linh đặc sắc và linh thiêng.Hình thức lên đồng, hầu bóng cổ đặc trưng ở Kiếp Bạc đã thu hút và quy tụ đông đảo con nhang đệ tử. Đức tin của họ với Đức Thánh khá lớn nên là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của đạo phái Thanh đồng. Trần Hưng Đạo Đại Vương - Đức Thánh Trần đã sản sinh ra một dòng phái thanh đồng đặc sắc, tiêu biểu của Đạo giáo Việt Nam, phản ánh chân thực bản chất về đức tin, sùng bái của người Việt.

Dù có biến đổi ít nhiều về mục đích và hình thức, song cốt lõi của nghi thức hầu đồng ở Kiếp Bạc là sự thể hiện lòng tôn kính hướng về cội nguồn và mong sự


bình an, thịnh vượng cho muôn dân, cứu độ chúng sinh. Đó chính là những giá trị nhân văn sâu sắc mà ở bất cứ thời điểm nào cũng được trân trọng và gìn giữ.

Ngoài ra còn có các lễ hội nổi bật khác như: Lễ rước bộ, Lễ tế, Lễ khai ấn.

e) Một số trò chơi dân gian đặc trưng

Trò chơi bắt vịt: Bắt vịt là trò chơi vui nhộn dễ tổ chức và được nhiều người tham gia. Để chuẩn bị trò chơi bắt vịt, Ban Tổ chức thành lập ba đội chơi, mỗi đội có 15 người, chọn 20 con vịt đực, khoẻ mạnh. Trò chơi này được tổ chức vào sáng ngày 17 tháng 8 âm lịch tại hồ trước của đền Kiếp Bạc.Trò chơi bắt vịt tạo cho lễ hội Kiếp Bạc một không khí vui vẻ, qua đó thúc đẩy việc rèn luyện sức khoẻ để lao động sản xuất, nhắc nhở thế hệ hôm nay không quên một thời gian khổ mà hào hùng của dân tộc.

Đi cầu thùm: Đi cầu thùm tái hiện cảnh sinh hoạt của cư dân vùng sông nước Kiếp Bạc, thể hiện sự khéo léo, thông minh, bản lĩnh nên thu hút được sự tham gia của đông đảo mọi người. Trò chơi này cũng diễn ra tại hồ trước cửa đền Kiếp Bạc nhưng vào sáng ngày 19 tháng 8 âm lịch. Đây là trò chơi gắn liền với đời sống sinh hoạt của cư dân vùng Kiếp Bạc, được người dân ở đây rất ưa thích.

Bơi chải: Cùng với trò chơi bắt vịt, đi cầu thùm, trong lễ hội đền Kiếp Bạc còn tổ chức thi bơi chải giữa các địa phương quanh vùng tham gia như: Kênh Giang (Chí Linh), Yết Kiêu (Gia Lộc), Hào Xá (Thanh Hà). Đây là trò chơi mang tinh thần thượng võ, rèn luyện cho con người sức khoẻ, sự dẻo dai trong cuộc sống. Thời gian tổ chức là ngày 18 - 19 tháng 8 âm lịch. Hiện nay, Ban tổ chức lễ hội đã nâng cấp quy mô, phạm vi của trò chơi thành giải đua thuyền chải mở rộng, có sự tham gia của các tỉnh lân cận. Đến nay, giải đã thu hút sự quan tâm, ủng hộ của đông đảo nhân dân địa phương và du khách thập phương. Năm 2012, Liên đoàn đua thuyền Việt Nam đã tổ chức giải đua thuyền toàn quốc tại sông Lục Đầu. Đây là hoạt động hội nổi bật, báo công, trình diễn trước Đức Thánh về sức mạnh của sự đoàn kết, khéo léo và khổ luyện của nhân dân cả nước, trong việc rèn luyện sức khoẻ, bảo vệ lãnh hải của Tổ quốc, phát triển đất nước.

Xem tất cả 228 trang.

Ngày đăng: 14/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí