Một Số Kiến Nghị Về Giải Pháp Tăng Cường Quản Lý Cạnh Tranh Trong Lĩnh Vực Dịch Vụ Phân Phối Ở Việt Nam


Do vậy, cuộc chiến cạnh tranh giữa những doanh nghiệp phân phối nước tại Việt Nam là điều khó tránh khỏi. Và điều này có thể dẫn đến hai kết quả, một là trên thị trường phân phối của Việt Nam hoặc sẽ có nhiều hơn các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực này hoặc là sẽ có ít hơn; hai là cấu trúc thị trường sẽ tập trung hơn hoặc ít tập trung hơn. Điều quan trọng mà cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam cần quan tâm đó là tạo lập, duy trì và thúc đẩy môi trường cạnh tranh lành mạnh trên thị trường này. Chúng ta sẽ không quan tâm nhiều đến là liệu những doanh nghiệp này là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, liên doanh, cổ phần, tư nhân hay doanh nghiệp Việt Nam. Vì Việt Nam cần phải thực thi và áp dụng nguyên tắc của WTO về đối xử tối huệ quốc (MFN), nguyên tắc đối xử quốc gia (NT), không phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên thị trường Việt Nam.

Cùng với đời sống vật chất được nâng lên, thói quen và tâm lý tiêu dùng của người dân cũng có sự chuyển biến đáng kể trong vài năm gần đây, theo hướng chuyển dần sang sử dụng kênh phân phối hiện đại (các cửa hàng tiện ích, siêu thị, đại siêu thị) đặc biệt là ở các thành phố lớn. Nhiều người đã đặt ra câu hỏi về số phận của kênh phân phối truyền thống (chợ, chợ cóc, chợ tạm, các tiệm tạp hóa, cửa hàng bán sỉ, bán lẻ...) vốn đã tồn tại hàng nghìn năm, thậm chí được coi là một nét văn hoá trong đời sống sinh hoạt của người Việt có còn tồn tại trong tương lai? Và liệu xu huớng cạnh tranh trong thời gian tới sẽ chủ yếu vẫn diễn ra giữa các nhà phân phối nước ngoài với phương thức hiện đại và các doanh nghiệp trong nước với phương thức truyền thống nữa hay không?

Quá trình cải cách thể chế của Chính phủ cùng với việc giảm dần các rào cản gia nhập thị trường sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như nhà đầu tư trong nước. Sự thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp phân phối nước ngoài ngày càng sâu rộng về quy mô, số lượng và thị phần. Với sự đầu tư của các tập đoàn nước ngoài, kênh phân phối hiện đại sẽ ngày càng phát triển. Theo đánh giá của các chuyên gia, tốc độ tăng trưởng của kênh phân phối hiện đại tại Việt Nam vào khoảng 5%/năm. Dự tính, khoảng 10 năm tới, tỷ trọng kênh phân phối truyền thống sẽ giảm dần, hệ thống


phân phối hiện đại sẽ chiếm hơn 50% trên thị trường bằng Trung Quốc và Thái Lan hiện nay. Sự ưu việt của hệ thống phân phối hiện đại sẽ thay thế cho phương thức kinh doanh truyền thống. Do vậy phương thúc phân phối truyền thống sẽ tồn tại song song với các hình thức phân phối hiện đại nhưng dần dần sẽ bị suy yếu.

Sự phát triển của thị trường dịch vụ phân phối được coi là tất yếu trong nền kinh tế thị trường, thậm chí nó còn là một trong những thước đo sự phát triển của nền kinh tế. Ở góc độ người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi từ những hệ thống này: nhiều sản phẩm mới của nước ngoài sẽ vào Việt Nam theo kênh của nhà phân phối, mua hàng hóa có xuất xứ rõ ràng (thời điểm hiện tại ngay trong các siêu thị lớn vẫn còn khá nhiều mặt hàng không có xuất xứ hàng hoá đặc biệt là thực phẩm tươi sống); người tiêu dùng có thể mua nhiều hàng hoá phục vụ nhu cầu thiết yếu tại một địa điểm... Nhưng về phía nhà sản xuất áp lực sẽ lớn hơn.

Với hệ thống phân phối hiện đại, tiện lợi, các nhà phân phối nước ngoài không chỉ thay đổi thói quen, tâm lý tiêu dùng mà còn khiến cho các doanh nghiệp phân phối, sản xuất trong nước phải tự làm mới và hoàn thiện mình theo hướng chuyên nghiệp. Trong tương lai nhà sản xuất sẽ tự xây dựng điểm bán hàng trực tiếp đến người tiêu dùng, chủ động thiết lập kênh phân phối để kiểm soát được các nhà bán lẻ và dễ thâm nhập vào hệ thống phân phối sản phẩm cùng loại đã có mặt trên thị trường từ trước. Quá trình tích tụ và liên kết diễn ra mạnh mẽ giữa các nhà phân phối trong nước với nhau, tạo thành chuỗi liên kết giữa các nhà sản xuất, ngân hàng để nâng cao sức cạnh tranh. Một số nhà phân phối trong nước có tiềm lực sẽ mở rộng hoạt động kinh doanh bằng cách liên kết với các nhà phân phối nước ngoài hoặc thông qua các trung tâm giới thiệu sản phẩm, trung tâm thuơng mại của Việt Nam ở nước ngoài.

Trước khi gia nhập WTO, đã xuất hiện một số nhà phân phối lớn của nước ngoài có mặt ở Việt Nam tạo ra một sức ép cạnh tranh cho các nhà phân phối trong nước. Mặc dù các doanh nghiệp nước ngoài có phương thức kinh doanh và tiềm lực kinh tế mạnh nhưng họ vẫn chưa áp dụng các chiến lược cạnh tranh như hành vi cạnh tranh về giá: giảm giá và chấp nhận chịu lỗ, áp dụng mức chiết khấu cao. Tuy nhiên sau khi gia nhập WTO, số lượng các doanh nghiệp phân phối nước ngoài sẽ


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

tăng lên nhanh chóng. Theo các chuyên gia ngành phân phối, mở cửa lĩnh vực phân phối sẽ có nhiều đại gia chia sẻ miếng bánh đầy tiềm năng này. Điều này sẽ khiến lĩnh vực phân phối tại Việt Nam gặp nhiều thách thức trong cạnh tranh khi đối mặt với các tập đoàn quốc tế có sức mạnh về tài chính, thế mạnh về công nghệ quản lý, thương hiệu và kinh nghiệm. Nhờ tiềm lực tài chính quá mạnh của mình, mạng lưới phân bổ rộng khắp trên toàn quốc, các tập đoàn này có doanh số mua hàng rất lớn, có sức mạnh trong đàm phán và do đó có ưu thế cạnh tranh. Khi đã có ưu thế trong cạnh tranh, các đại gia này sẽ dễ dàng thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, lạm dụng vị trí thống lĩnh đối với đối thủ cạnh tranh, nhà cung cấp và gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Các nhà phân phối nước ngoài trong thời gian tới nhằm chiếm lĩnh thị trường có thể bán dưới giá thành (chấp nhận lỗ), áp dụng mức chiết khấu cao. Họ có thể liên kết với các doanh nghiệp phân phối Việt Nam (nhưng phải là các nhà phân phối lớn, có uy tín trên thị trường) tạo ra thách thức cho các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Sự bảo hộ của nhà nước giảm dần, cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển dịch vụ phân phối sẽ được áp dụng cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Với các đối thủ của mình, các đại gia có thể giảm giá thấp hơn so với chi phí để loại bỏ các đối thủ và sau đó lại nâng giá lên. Như trường hợp của Metro, các siêu thị trong nước đang có ý định kiện Metro bán phá giá do có một số mặt hàng được bán ra với mức giá thấp không thể tin được. Các công ty phân phối lớn cũng có thể lợi dụng ưu thế trên thị trường của mình để đối phó với các nhà cung cấp, ép các nhà cung cấp không bán hàng hoá hoặc dịch vụ cho đối thủ cạnh tranh, hoặc đưa ra những yêu cầu vô lý. Do không thể dễ dàng tìm được một công ty phân phối khác nên các nhà cung cấp buộc phải chấp nhận các yêu cầu vô lý này.

Tất cả những nhân tố trên đã có thể dự báo cho một cuộc chiến tranh khốc liệt và gay gắt trong một tương lai không xa đối với lĩnh vực dịch vụ phân phối ở Việt Nam. Cuộc chiến tranh này sẽ diễn ra cân sức hơn khi ở nước ta hệ thống phân phối truyền thống sẽ bị lấn át bởi hệ thống phân phối hiện đại. Tuy nhiên điều này cũng làm nảy sinh mối lo ngại sẽ xuất hiện nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh núp bóng dưới nhiều hình thức làm giảm sự phát triển, năng lực cạnh tranh của

Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối hàng hóa ở Việt Nam - 11


doanh nghiệp, gây tổn hại đến kinh tế - xã hội. Vì thế, Nhà nước phải có những giải pháp quản lý cạnh tranh lành mạnh cũng như bản thân các doanh nghiệp phải có những đổi mới, hướng đi phù hợp, đúng đắn để có thể tồn tại, tự do hoạt động và phát triển trong một môi trường cạnh tranh khắc nghiệt.‌


II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM

1. Đối với Nhà nước

1.1. Ban hành các quy định pháp lý cụ thể hơn về cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối

Chính phủ cần sớm ban hành các quy định hướng dẫn thực thi Luật Cạnh tranh trong lĩnh vực phân phối. Các quy định vừa có tính mở để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài nhưng cũng nhằm bảo hộ cho ngành công nghiệp bán buôn, bán lẻ còn non trẻ ở Việt Nam. Mặt khác, các quy định cũng không được trái với các cam kết trong WTO về mở cửa thị trường dịch vụ trong đó có lĩnh vực phân phối. Cần rà soát lại các quy định của WTO và của Việt Nam để tránh sự mâu thuẫn, cũng như trái với các cam kết đã đưa ra. Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động phân phối chủ yếu được quy định tại Luật Cạnh tranh, Luật Thương mại. Liên quan đến đầu tư nước ngoài, Quốc Hội đã ban hành Luật Đầu tư 2005.

Luật Cạnh tranh là một văn bản pháp lý điều chỉnh chủ yếu cạnh tranh trong lĩnh vực phân phối ở Việt Nam. Tuy nhiên, có thể thấy, Luật Cạnh tranh của Việt Nam mới chỉ quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh áp dụng cho tất cả hoạt động kinh doanh trên mọi lĩnh vực, mà chưa có những hướng dẫn cụ thể đối với hoạt động phân phối vốn luôn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp. Điều 42 của Luật Cạnh tranh (ép buộc trong kinh doanh) đã có đề cập đến việc cấm doanh nghiệp ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép họ để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó, nhưng như thế vẫn chưa bao trùm hết các hành vi. Chẳng hạn, nhà bán buôn, hoặc nhà bán lẻ có quy mô lớn lạm dụng mối quan hệ thường xuyên, hoặc vị thế của họ trong mua hàng để ép buộc nhà cung ứng (hoặc nhà bán


buôn) phải bán với giá thấp hơn, hoặc phải đặc phái nhân viên hỗ trợ cho họ, hoặc có các yêu cầu khác. Do vậy, việc cụ thể hóa các hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối như các quy định về kinh doanh cửa hàng bán lẻ lớn, doanh nghiệp kinh doanh cửa hàng bán lẻ lớn; các hành vi kinh doanh không lành mạnh liên quan đến các hoạt động phân phối như trả lại hàng hóa một cách bất hợp pháp, giảm giá bất hợp pháp, chậm thanh toán cho nhà cung cấp mà không rõ lý do hợp lý, đưa ra các yêu cầu, ép buộc bất hợp pháp hay từ chối nhận hàng của nhà cung cấp một cách bất hợp pháp là một yêu cầu rất khách quan và cần thiết [3].

Do vậy trong tương lai gần, Chính phủ cần ban hành thêm các văn bản hướng dẫn nhằm quy định cụ thể các hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh của hoạt động siêu thị bán buôn, bán lẻ, trung tâm thương mại. Tuy nhiên trong quá trình thực thi các quy định của pháp luật Việt Nam nói chung và các quy định về kinh doanh, cạnh tranh trong lĩnh vực phân phối nói riêng, các cam kết mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia như cam kết mở cửa thị trường khi gia nhập WTO, Hiệp định AFTA, Hiệp định thương mại song phương,… có hiệu lực pháp lý cao hơn luật quốc gia và luôn được ưu tiên áp dụng trước. Chính từ nguyên tắc tuân thủ này đã đặt ra một yêu cầu lớn và cấp bách đối với các cơ quan hoạch định chính sách, nhà làm luật và cơ quan thực thi pháp luật từ Trung ương ̣̣đến địa phương của Việt Nam về việc hiểu, cách giải thích luật và áp dụng luật một cách hài hòa, đồng bộ và thống nhất, ban hành những quy định, yêu cầu pháp luật phù hợp, tránh những sự xung đột, mâu thuẫn và chồng chéo giữa việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực phân phối, về tập trung kinh tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế với việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực cạnh tranh nhằm duy trì, bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực này.

1.2. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật cạnh tranh cho cộng đồng kinh doanh nói chung và các doanh nghiệp phân phối nói riêng

Nhà nước cũng cần nâng cao nhận thức cho các đối tượng liên quan đến lĩnh vực phân phối: nhà cung cấp, các doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ, người tiêu dùng về quyền lợi và trách nhiệm của họ trong việc chấp hành nghiêm chỉnh Luật Cạnh


tranh góp phần tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng hơn nữa cho mọi đối tác thuộc mọi thành phần trong nước cũng như ngoài nước. Kết quả điều tra về tình trạng cạnh tranh hiện nay trong lĩnh vực dịch vụ phân phối cho thấy các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước hiện nay tuy đã từng được nghe về Luật Cạnh tranh và Cục Quản lý Cạnh tranh thế nhưng thực tế các doanh nghiệp vẫn không hiểu về các quy định trong Luật Cạnh tranh cũng như vai trò, chức năng của Cục Quản lý Cạnh tranh. Đối với họ, khi phải đối mặt với hành vi cạnh tranh không công bằng họ vẫn chưa nghĩ đến Cục Quản lý cạnh tranh hay nhờ cậy đến Luật Cạnh tranh để bảo vệ quyền lợi cho mình. Như vậy với tình hình thị trường dịch vụ phân phối đang phát triển với tốc độ nhanh, với mức độ cạnh tranh khốc liệt trong tương lai khi Việt Nam mở cửa hơn nữa thị trường dịch vụ phân phối của mình và với thực trạng đã xuất hiện một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường thì Cục Quản lý Cạnh tranh nên tăng cường các hoạt động quảng bá Luật Cạnh tranh của mình. Để tăng cường, phổ biến và nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp phân phối về cạnh tranh, Cục cần tổ chức nhiều hơn nữa các hội thảo, diễn đàn bàn về việc áp dụng Luật Cạnh tranh trong hoạt động phân phối. Tại các diễn đàn, hội thảo ấy, các doanh nghiệp không chỉ có thể cất lên tiếng nói của mình một cách tự do, bình đẳng mà còn có thể giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Từ đó, Cục có thể nhận được những phản hồi từ phía các doanh nghiệp, phát hiện những chỗ trống trong nhận thức của doanh nghiệp để tìm cách bổ sung và phổ biến Luật Cạnh tranh đối với họ.

1.3. Tạo môi trường pháp lý kinh doanh thông thoáng cho các doanh nghiệp phân phối

Hoàn thiện khung pháp lý, tạo môi trường kinh doanh ổn định, lành mạnh là một trong những giải pháp quan trọng trong đề án phát triển thương mại trong nước đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Các Bộ, Ngành cần khẩn trương xây dựng, trình Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; rà soát để bổ sung, hoàn chỉnh các văn bản pháp luật có liên quan đến hàng rào kỹ thuật (tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường) nhằm bảo vệ thị trường trong nước và người tiêu dùng. Việc tạo môi trường kinh doanh thông thoáng sẽ tạo


điều kiện cho các doanh nghiệp phân phối phát triển trong điều kiện cạnh tranh công bằng và tạo điều kiện để các nhà phân phối Việt Nam cạnh tranh cân sức. Chính phủ cần phải cải cách hành chính và thể chế quản lý thị trường phân phối, khuyến khích các doanh nghiệp thành lập các hiệp hội bán buôn, bán lẻ, chợ, siêu thị. Đồng thời kiểm tra, kiểm soát thị trường, điều hành thị trường, quy hoạch phát triển thương mại và các chính sách, giải pháp khuyến khích đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thương mại. Hoàn thiện khung pháp lý, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, ổn định. Đổi mới công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển thị trường nội địa nói chung và thị trường phân phối hàng hóa nói riêng để định hướng cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, lưu thông và phân phối.

1.4. Tăng cường năng lực thể chế và chuyên môn của các cơ quan giám sát cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối

Dưới sức ép của thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thực hiện nghiêm chỉnh những cam kết quốc tế về tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường đầu tư và hoạt động thương mại của Chính phủ Việt Nam thì sự xuất hiện và bành trướng nhanh của các tập đoàn phân phối lớn nước ngoài là điều khó tránh khỏi. Để hạn chế những tác động tiêu cực đã có thể dự liệu trước như đã được trình bày ở trên trong trước mắt và lâu dài, chúng ta cần có một cơ chế quản lý nhà nước một cách nghiêm túc, thận trọng, thường xuyên và chặt chẽ, có tính đến việc yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài khi tiến hành đầu tư ở địa phương phải đưa ra những cam kết, bản ghi nhớ mang tính cộng đồng, tính phát triển bền vững, những quy định về đạo đức kinh doanh được chấp nhận chung và việc tuân thủ những cam kết này.

Vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh ở đây sẽ là việc giám sát, phân tích, đánh giá những diễn biến mới của môi trường kinh doanh trong lĩnh vực phân phối mà những diễn biến này được hình thành từ những hành vi cạnh tranh giữa những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên thị trường này. Mục tiêu của nhiệm vụ này là nhằm bảo vệ cạnh tranh lành mạnh trong thị trường phân phối. "Bàn tay hữu hình" của Nhà nước chỉ can thiệp vào thị trường này khi có những hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhằm mục tiêu ngăn cản, hạn chế hoặc bóp méo cạnh tranh.


Đây cũng chính là phương pháp thực thi của Luật Cạnh tranh khi tiếp cận theo mặt trái của vấn đề. Chúng ta sẽ quan tâm là liệu cấu trúc thị trường trong lĩnh vực phân phối như thế nào có quá tập trung hay không, mức độ tích tụ cao hay là thấp. Mức độ tập trung cao của thị trường được coi như là một trong những nhân tố quan trọng tác động tiêu cực đến cạnh tranh và dễ tạo ra vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị trường.

Cần đẩy mạnh hơn nữa việc tăng cường năng lực thể chế và chuyên môn của cơ quan giám sát, kiểm tra và thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về sản xuất, lưu thông phân phối hàng hóa. Trong chiến lược phát triển của mình nhà nước cần phải kiểm tra, kiểm soát thị trường bằng những biện pháp đã cam kết như chống gian lận thương mại, chống vi phạm quyền sở hữu. Đặc biệt khi Luật Thương mại bắt đầu thực hiện từ 01/01/2006, các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý thương mại và các nhà hoạt động thương mại cần phải lưu tâm nhiều vấn đề làm thế nào để phát triển thị trường phân phối Việt Nam văn minh hiện đại.

Nhà nước cũng cần tạo lập một cơ chế phối hợp chặt chẽ và tích cực với các Bộ/Ngành có liên quan trong lĩnh vực phân phối như cơ quan thẩm định và cấp giấy phép đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư; các cơ quan quản lý, quy hoạch, kế hoạch và xây dựng chiến lược phát triển mặt hàng, phát triển sản xuất - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Công nghiệp. Đồng thời, Nhà nước cần phân đinh trách nhiệm một cách cụ thể và rõ ràng cho các Bộ/Ngành, các cơ quan hữu quan. Chẳng hạn, Vụ Kế hoạch và Đầu tư cần chủ trì, phối hợp với Vụ Chính sách thương mại đa biên, Vụ Pháp chế, Vụ Chính sách thị trường trong nước hướng dẫn cụ thể việc thực thi cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện các dịch vụ bán buôn, bán lẻ, nhượng quyền thương mại và đại lý. Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì, phối hợp với Vụ Chính sách thị trường trong nước, Vụ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Quản lý cạnh tranh và các Bộ hữu quan nghiên cứu giải pháp khuyến khích các doanh nghiệp thành lập các hiệp hội bán buôn, bán lẻ, chợ, siêu thị (chú trọng thu hút các hộ kinh doanh tham gia) nhằm giúp các hội viên chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi thông tin, tìm kiếm cơ hội, tạo mối liên doanh liên kết, hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại trong nước,

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 08/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí