Những Khó Khăn Trong Quan Hệ Việt Nam – Nhật Bản


các mối quan hệ đầu tư, khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, đối ngoại, an ninh quốc phòng.

Thương mại hai chiều Việt – Nhật đạt 21 tỷ USD trong năm 2011. Năm 2012, 2013 đạt con số trên dưới 25 tỷ USD. Hàng hóa của Nhật Bản nhập khẩu vào Việt Nam tháng 2/2014 tăng trên 24% so với tháng đầu năm và cũng tăng 25,48% so với cùng tháng năm 2013, đạt 961,27 triệu USD; đưa kim ngạch nhập khẩu cả 2 tháng từ thị trường này lên 1,72 tỷ USD, tăng 4,58% so với cùng kỳ năm 2013. Nhật Bản cung cấp rất nhiều chủng loại hàng hóa cho Việt Nam; trong đó máy móc, thiết bị nhập khẩu từ Nhật Bản 2 tháng đầu năm chiếm 30,88% trong tổng kim ngạch, đạt 530,9 triệu USD, tăng 34,67% so với cùng kỳ năm trước; trong đó riêng tháng 2 kim ngạch đạt 27,56 triệu USD, tăng nhẹ 0,01% so với T1/2014 và tăng 41,41% so với T2/2013. Nhóm hàng sắt thép đứng thứ 2 về kim ngạch nhập khẩu từ Nhật, tháng 2 nhập khẩu trị giá 144,61 triệu USD; đưa kim ngạch 2 tháng lên 228,33 triệu USD, chiếm 13,28%, giảm 19,31% so cùng kỳ. Tiếp đến máy vi tính, điện tử chiếm 11,71%, đạt 201,28 triệu USD trong 2 tháng, giảm 18,4% so cùng kỳ. Trong số 38 nhóm hàng nhập khẩu chủ yếu từ Nhật Bản, có 16 nhóm hàng sụt giảm kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, còn lại 18 nhóm hàng tăng kim ngạch; trong đó đáng chú ý là một số nhóm hàng tuy kim ngạch không cao nhưng so với cùng kỳ lại tăng mạnh trên 100% như:Thức ăn gia súc và nguyên liệu (tăng 197,82%, đạt 1,29 triệu USD); điện thoại các loại và linh kiện (tăng 100,35%, đạt 1,47 triệu USD). Bên cạnh đó, nhập khẩu ô tô nguyên chiếc từ Nhật Bản cũng tăng mạnh 59,22% so cùng kỳ, đạt 18,54 triệu USD. Tuy nhiên, Việt Nam lại giảm mạnh nhập khẩu xe máy, mặt hàng sữa và phế liệu sắt thép từ thị trường Nhật; trong đó nhập khẩu xe máy giảm 88,66%, chỉ đạt 0,17 triệu USD; sữa giảm 60,66%, đạt 0,09 triệu USD; phế liệu sắt thép giảm 77,32%, đạt 3,93 triệu USD.


Để đạt mục tiêu tăng gấp đôi kim ngạch thương mại hai chiều vào năm 2020, tức là đạt trên 40 tỷ USD, tôi cho rằng riêng với tốc độ tăng trưởng thương mại hai chiều hiện nay, thì mục tiêu là hoàn toàn khả thi, vì còn bảy năm nữa để chúng ta phấn đấu. Quan hệ hợp tác của hai nước hiện nay tốt, môi trường thuận lợi, chắc chắn thương mại sẽ phát triển mạnh. Hiệp định quan hệ đối tác kinh tế EPA đang phát huy tác dụng, Quan hệ ASEAN-Nhật Bản đang được tăng cường… tạo thêm những thuận lợi cho quan hệ thương mại hai bên. Khẳng định phát triển quan hệ đối tác chiến lược Việt-Nhật đòi hỏi không chỉ nỗ lực của chính phủ hai nước mà cả sự ủng hộ và nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp hai nước, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đề nghị các doanh nghiệp Nhật Bản chọn Việt Nam là điểm đến tin cậy, mở rộng hơn nữa kinh doanh và đầu tư dài hạn tại Việt Nam, sớm đưa kim ngạch thương mại đạt mức 50 tỷ USD và hơn nữa trước năm 2020.

Trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản hiện nay, Đông Nam Á, ASEAN chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, bên cạnh các cặp quan hệ có ý nghĩa lớn đối với Nhật Bản như quan hệ với Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, EU… Đáng chú ý là, Thủ tướng Abe đã đến thăm tất cả 10 nước ASEAN trong vòng một năm – năm 2013, và đó cũng là lần đầu tiên Nhật Bản làm điều này. Mặt khác, Việt Nam cũng rất coi trọng quan hệ hợp tác toàn diện với Nhật Bản trên tinh thần Đối tác chiến lược và tin cậy lẫn nhau. Trong điều kiện ở cả hai nước có nhiều tiềm năng lớn cho hợp tác cùng có lợi và trong bối cảnh khu vực và quốc tế hiện nay, nguyện vọng và quyết tâm hợp tác của hai bên gặp nhau sẽ tạo ra nền tảng vững chắc cho quan hệ hai nước cũng như mang lại ý nghĩa quan trọng của mối quan hệ này trong chính sách đối ngoại của cả hai nước.

Đàm phán Hiệp định Đối tác Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP)


Đàm phán Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một đàm phán thương mại tự do nhiều bên, với mục tiêu thiết lập một khu vực thương mại tự do chung cho các nước đối tác trong khu vực châu Á Thái Bình Dương. Cho đến nay, đã có 12 nước tham gia vào đàm phán TPP (bao gồm New Zealand, Brunei, Chile, Singapore, Australia, Peru, Hoa Kỳ, Malaysia, Việt Nam, Canada, Mexico và Nhật Bản)

Lần đầu tiên Việt Nam tiến hành đồng thời các đàm phán về khu vực thương mại tự do với tất cả các trung tâm kinh tế hàng đầu thế giới, tạo các nền tảng lợi ích cho quan hệ đối tác bình đẳng, dài hạn, mang tính xây dựng và cùng có lợi. Cũng như Nhật Bản, Việt Nam hết sức coi trọng tiến trình đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương - một trong những liên kết kinh tế tiềm năng của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Việt Nam có vai trò quan trọng đối với các nước trong đàm phán TPP, bởi Việt Nam là quốc gia có thị trường đáng kể, có thể đem lại giá trị gia tăng tương đối lớn cho các nước tham gia đàm phán trong đó có Nhật Bản. Việc Việt Nam vào TPP mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt là trong những lĩnh vực mà Việt Nam chưa có nhiều cam kết, ví dụ như dịch vụ và đầu tư. Đối với Việt Nam, việc tham gia vào TPP có thể đem lại một số tác động tích cực như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.

- Đầu tiên, TPP sẽ giúp Việt Nam cân bằng được quan hệ thương mại với các khu vực thị trường trọng điểm, tránh phụ thuộc quá mức vào một khu vực thị trường nhất định. Số liệu thống kê cho thấy, khu vực Đông Á, bao gồm ASEAN, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản và Hàn Quốc luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, thường xuyên ở mức trên 60%, nếu tính riêng nhập khẩu thì lên tới trên 75%. Với sự gần gũi về vị trí địa lý, việc Đông Á chiếm tỷ trọng lớn trong quan hệ thương mại với Việt Nam là việc khó tránh. Tuy nhiên, tỷ trọng trên là quá lớn, có thể tiềm ẩn


Quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản trong bối cảnh mới giai đoạn 2008-2013 - 10

rủi ro khi kinh tế Đông Á có biến động bất lợi. Đàm phán và ký kết FTA với một số thị trường trọng điểm như Mỹ, EU có thể giúp chúng ta khắc phục tình trạng mất cân đối này.

- Thứ hai, quan hệ thương mại tự do với Nhật Bản xóa bỏ thuế nhập khẩu cho hàng nông sản trong TPP, sẽ là cú hích thực sự cho thương mại của hai nước. Theo tính toán của các doanh nghiệp, nếu thuế nhập khẩu được hạ về mức 0% thì hàng dệt may và giày dép Việt Nam sẽ đứng trước cơ hội lớn trong việc mở rộng thị phần trên thị trường các nước TPP, trong đó có thị trường Mỹ. Cơ hội cho các sản phẩm xuất khẩu chủ lực khác như thủy sản, đồ gỗ và nông sản cũng rất lớn.

- TPP sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam phân bổ lại nguồn lực theo hướng hiệu quả hơn, từ đó hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng. Ngoài ra, do TPP hướng tới môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch hóa quy trình xây dựng chính sách và khuyến khích sự tham gia của công chúng vào quá trình này, cho nên sẽ có tác dụng rất tốt để hoàn thiện thể chế kinh tế cũng như tăng cường cải cách hành chính.

Cùng với triển vọng hoàn tất 14 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giai đoạn từ năm 2015-2020, Việt Nam sẽ trở thành một mắt xích quan trọng của mạng lưới liên kết kinh tế rộng lớn với 55 đối tác, trong đó có 15 thành viên Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G20). Đây là những nền tảng căn bản để Việt Nam liên kết khu vực, hội nhập kinh tế quốc tế trên tầm cao mới và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

3.1.2. Những khó khăn trong quan hệ Việt Nam – Nhật Bản

“Xu hướng hội nhập, liên kết khu vực và quốc tế gia tăng đã và đang đem lại nhiều lợi thế cho các quốc gia tham gia vào quá trình này, trong đó có cả Việt Nam và Nhật Bản. Song cũng chính sự tiến triển của quá trình này, trong bối


cảnh các nền kinh tế không có cùng trình độ phát triển, rất có thể chúng sẽ gây tác động ngược, và sẽ ảnh hưởng tới quan hệ kinh tế và thương mại Việt Nam – Nhật Bản. Có thể kể một số tiêu cực do quá trình này gây ra: Trước hết, để tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế nước ta phải giảm dần thuế quan và tiến tới rỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, điều này sẽ làm cho hàng hoá và dịch vụ nước ngoài ồ ạt đổ vào thị trường nội địa, cạnh tranh “bóp chết” các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Thứ hai, do hội nhập kinh tế quốc tế mà mọi chấn động tiêu cực trong hệ thống kinh tế toàn cầu (tiền tệ, tài chính, giá cả nguyên nhiên liệu…) cũng có thể ảnh hưởng đến nước ta. Ngoài ra, phải kể đến khá nhiều tác động tiêu cực khác, song những tác động tiêu cực này có thể lớn hay nhỏ, điều đó còn tuỳ thuộc vào các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta.” 10, tr.302 Nếu chúng ta có các chính sách hội nhập đúng đắn và thích hợp thì ảnh hưởng của những mặt tiêu cực sẽ bị hạn chế. Điều này, đòi hỏi ta phải nghiên cứu một cách toàn diện, triệt để những cơ hội và thách thức mà vấn đề toàn cầu hoá đặt ra để định ra đường lối đúng đắn và hoạch định chiến lược phát triển của đất nước trong thời gian tới. Các chính sách này sẽ tác động tới quan hệ tới quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản nói riêng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Mặc dù, con đường phát triển phía trước còn nhiều cơ hội đang rộng mở, nhưng nước ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách thức vá khó khăn chồng chất.

- Một là, trước hết, về cơ bản Việt Nam vẫn còn là một nước nông nghiệp, cơ sở vật chất và trình độ công nghệ còn thấp xa với các nước trong khu vực. Do vậy, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, cơ cầu kinh tế chuyển biến chậm, hướng đầu tư chưa cao, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế.


- Hai là, các cân đối vĩ mô của nền kinh tế còn chưa ổn định vững chắc; tỷ lệ tiết kiệm, đầu tư còn thấp do thu nhập bình quân của người dân chưa cao.

- Ba là, hệ thống luật pháp về kinh tế còn đang trong quá trình hoàn thiện nên thiếu tính đồng bộ, một số văn bản ban hành chậm và thiếu nhất quán đã gây cản trở quá trình thực hiện, chưa tạo ra động lực mới để vượt qua khó khăn, thúc đẩykinh tế phát triển. Cải cách hành chính tiến hành chậm và thiếu kiên quyết nên bộ máy hành chính hoạt động chưa hiệu quả, hiệu lực thấp. một bộ phận công chức còn yếu về năng lực, phẩm chất…(nên hoạt động theo kiểu làm công ăn lương).

- Bốn là, nền kinh tế nước ta có thể nói là kinh tế thị trường nhưng chưa phát triển; hệ thống thị trường chưa hoàn thiện; chẳng hạn như thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường chứng khoán, bảo hiểm… do đó, không thu hút được các nhà đầu tư cũng như làm méo mó sự phân bổ các nguồn lực. Ngoài ra, hệ thống tín dụng ngân hàng ở nước ta còn nhiều yếu kém, chưa được hiện đại hoá cao, gây mất thời gian, tăng chi phí và giảm sự năng động của các doanh nghiệp. Ví dụ như là việc đặt máy rút tiền tự động cũng chỉ đặt trong những ngân hàng lớn, ở những thành phố lớn và xa nơi công cộng làm cho việc rút tiền chậm chạp….

- Thứ năm, đó là sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước còn thấp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế nhà nước. Mặc dù các doanh nghiệp này được hưởng sự đầu tư, ưu đãi của nhà nước và chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân, nhưng nhiều doanh nghiệp nhà nước đều nằm sâu trong tình trạng làm ăn thua lỗ, không hiệu quả. Hiện nay, Nhà nước đã thực hiện quá trình sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả nhưng tiến trình cải cách còn chậm, mới chỉ cổ phần hoá được một số các doanh nghiệp nhà nước, dù quá trình cổ phần hoá diễn ra đã khá lâu. Đây là một cách thức lớn


đối với nước ta trong quá trình hội nhập thế giới và phát triển quan hệ kinh tế với các nước, trong đó có Nhật Bản.

- Sáu là, các doanh nghiệp Nhật Bản cho rằng, việc phát triển quá nhanh các khu công nghiệp trong định hướng phát triển của Chính phủ Việt Nam đã làm cho không ít các doanh nghiệp Nhật Bản thiếu hụt nguồn lao động. Điều này dẫn đến việc họ khó có thể sử dụng, tuyển dụng nguồn nhân lực địa phương, không tìm được lao động đã qua đào tạo, kỹ sư lành nghề.

Cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, những khó khăn của nền kinh tế hiện đại cùng với sự gia tăng mạnh mẽ cạnh tranh quốc tế càng làm bộc lộ rõ những yếu kém của và làm chậm lại nhịp phát triển tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Hơn lúc nào hết, thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước phát triển nếu không duy trì được mức tăng trưởng trên 9 %. Vấn đề đặt ra hiện nay là, cần xác định rõ lộ trình các bước đi, đặt ra từng kế hoạch 5 năm có sự cam kết của các tổ chức, doanh nghiệp; cụ thể hoá kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc biệt là phương hướng, biện pháp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bố trí đào tạo cán bộ có đủ năng lực kiến thức, tinh thần làm việc theo kiểu công nghiệp để thực hiện thành công quá trình hội nhập. những cam kết Nhà nước ta phải thực hiện đối với từng tổ chức tạo điều kiện làm việc, kinh doanh ưu đãi, thời gian thực hiện để từ đó mỗi doanh nghiệp tích cực, chủ động tổ chức sản xuất, kinh doanh sao cho có hiệu quả.

3.2.Một số giải pháp gợi ý cho quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản.

Trong lĩnh vực kinh tế, hai bên cần kết hợp tiềm năng lớn của Việt Nam về con người, tài nguyên với ưu thế vượt trội của Nhật Bản về vốn, thiết bị và công nghệ hiện đại, tiên tiến thúc đẩy và mở rộng các lĩnh vực hợp tác, nhất là về công nghệ cao, công nghiệp chế tạo, công nghiệp phụ trợ. Hai bên cũng cần tiếp


tục đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, tận dụng điều kiện thuận lợi là Nhật Bản có trình độ giáo dục cao, môi trường học tập nghiên cứu ưu việt và Việt Nam có dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào, nhu cầu đào tạo tay nghề cao và sau đại học rất lớn. Trong quan hệ giữa hai nước cũng có một số vụ việc gây ảnh hưởng xấu, nhưng trên nền tảng hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau, hai bên đã cùng nhau giải quyết ổn thỏa những vấn đề nảy sinh. Sau đây là một số giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt - Nhật từ phía nhà nước Việt Nam và từ phía các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

3.2.1. Giải pháp chung từ phía nhà nước

Cải tiến hệ thống chính sách thuế khóa và thuế quan phù hợp với tự do hóa thương mại thế giới: Nhanh chóng thực hiện các chương trình về thuế quan trong chương trình của khối ASEAN để có thể sớm hòa nhập vào thị trường khu vực và có thể tham gia và có thể tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này sẽ tạo cho chúng ta cơ hội tham gia vào quá trình hoạt động thương mại với Nhật Bản. Thông qua việc cung cấp các nguyên- nhiên liệu đầu vào cho mạng lưới các công ty Nhật Bản, đã và đang được hình thành trên khu vực châu Á sẽ tăng thêm về mặt số lượng và hiệu quả kinh tế đối với hàng hóa của ta.

Song song với chương trình cắt giảm thuế quan, chúng ta cũng nên mạnh dạn áp dụng các mức thuế ưu đãi đối vơi thu nhập của các doanh nghiệp trong nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu nhập cao hơn. Để tăng nhanh khối lượng hàng hóa qua chế biến, cách tốt nhất là chính phủ nên đưa ra các chính sách tích cực, khuyến khích sự tham gia của các hãng Nhật Bản trong quá trình sản xuất, chế biến hàng háo xuất khẩu của Việt Nam. Đây chính là chìa khóa để Việt Nam nâng cao chất lượng và thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và thị trường các nước khác.

Xem tất cả 103 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí