Ngoài ra, Việt Nam cũng phải có những biện pháp hiệu quả trong việc chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu hợp lý để quan hệ thương mại Việt Nam- Nhật Bản phát triển thực sự với tiềm năng và nhu cầu của hai nước. Nhất là về phía Việt Nam, chúng ta phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện hệ thống hoạt động ngoại thương, không chỉ dừng lại trong việc nâng cao chất lượng của cơ sở hạ tầng mà ở ngay cả các chính sách thuế quan, giấy phép xuất nhập khẩu, đội ngũ cán bộ công nhân viên… Hiện tại, để giảm bớt sự trả giá, ngay từ bây giờ cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sẽ phát triển theo hướng là: làm giảm và tiến tới loại bỏ các nguyên, nhiên liệu thô, gia tăng tỷ trọng xuất khẩu của những mặt hàng đã qua chế biến. Cơ cấu nhập khẩu cũng phải chuyển dịch theo hướng ưu tiên nhập khẩu những máy móc công nghệ đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nước. Có nghĩa là các công nghệ hiện đại sẽ chiếm tỷ trọng cao trong giá trị nhập khẩu của Việt Nam, bởi vì Nhật Bản là một nước có tiềm lực khoa học công nghệ rất phát triển so với các quốc gia khác trên thế giới. Các mặt hàng tiêu dùng, nếu không phải là thiết yếu thì sẽ không nhập khẩu hoặc chỉ nhập khẩu với tỷ trọng không đáng kể, ưu tiên dành mọi nguồn lực cho nhập khẩu máy móc, công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tình trạng yếu kém trong khả năng tài chính của các công ty Việt Nam, nhất là các công ty nhà nước, khiến hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam – Nhật Bản giảm sút. Do vậy, chính phủ cũng cần có những chính sách và biện pháp tích cực để giải quyết triệt để những khoản nợ mà các công ty Việt Nam đang mắc phải( chủ yếu là nợ khó đòi). Cho phép các công ty mua lại dưới hình thức trả chậm. Chính phủ Việt Nam cũng cần phải có những biện pháp củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước kể cả những doanh nghiệp đã cổ phần hóa. Có thể cho giải thể những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả trong các lĩnh vực ít phục
vụ cho nền kinh tế quốc dân. Đẩy nhanh hơn tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và nâng cao hơn nữa vai trò của thị trường chứng khoán trong đời sống kinh tế quốc gia, đồng thời khuyến khích phát triển đa dạng hóa kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, đa dạng hóa cả những thành phần kinh tế ngoài 6 thành phần kinh tế chính.
Mặt khác, chính phủ cũng cần có biện pháp nghiên cứu tìm hiểu sâu sắc hơn về cách thức làm ăn của người Nhật, để điều chỉnh lại chính sách của mình cho phù hợp hơn để tăng cường hiểu biết hơn nữa về thị trường đối tác của mình. Hiện nay, Việt Nam đã thành lập các trung tâm tư vấn chuyên về Nhật Bản thuộc Bộ thương mại nhằm giảm bớt những thua thiệt không đáng có của các công ty Việt Nam khi kí hợp đồng gia công, liên doanh… với các công ty Nhật Bản.
Tích cực triển khai và đa dạng hóa cả về hình thức lẫn nội dung của các chính sách hỗ trợ - xúc tiến thương mại quốc tế Việt – Nhật. Bộ công thương, Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam (VIETADE) và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng các đại sứ quán, tham tán thương mại Việt Nam tại Nhật Bản cần tích cực và chủ động hợp tác với Tổ chức Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) trong việc cung cấp thông tin thị trường hai nước, là cầu nối cho các doanh nghiệp của hai nước thông qua các hình thức như công bố thông tin trên website, phát hành ấn phẩm số liệu hàng năm, chỉ dẫn luật pháp, hỗ trơ nghiên cứu thị trường. Đặc biệt rất nên tổ chức các hội thảo, diễn đàn kinh tế song phương, hội chợ triển lãm thương mại (như EXPO)… tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước quảng bá được hàng hóa của mình, gặp gỡ nhiều đối tác tiềm năng mới và trao đổi, học hỏi kinh nghiệm sản xuất kinh doanh.
Việt Nam cần xây dựng các chương trình đào tạo thực hành theo yêu cầu của các nhóm ngành, nâng cao năng lực của các trường đào tạo nghề, có chương trình đào tạo công nhân kỹ thuật phù hợp với nhu cầu thực tế, chú trọng vấn đề thực hành. Đặc biệt, một biện pháp có tính khả thi cao từ phía doanh nghiệp Nhật Bản đề xuất là thành lập các cơ sở đào tạo của mình tại Việt Nam.
Để thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ trước hết đòi hỏi Chính phủ Việt Nam phải có khuôn khổ chính sách phù hợp và sự hỗ trợ đúng mức từ các đối tác Nhật Bản. Muốn làm được điều đó, trước hết chúng ta cần phải dựa vào “Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản”. Nhưng điều quan trọng hơn là sự sẵn sàng của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong phát triển những công nghệ mới phù hợp với nhu cầu về sản phẩm phụ trợ do đầu tư mới đặt ra. Trước mắt, cần rà soát lại các doanh nghiệp nhà nước để tìm ra các đơn vị sản xuất có tiềm năng cung cấp các bộ phận, linh kiện, phụ kiện với chất lượng và giá thành cạnh tranh, từ đó tăng c- ường hỗ trợ về vốn, công nghệ để tiềm năng trở thành hiện thực. Chính phủ cần phải có chế độ khuyến khích thỏa đáng cho các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhằm tạo điều kiện cho họ thực hiện thành công việc sản xuất và cung cấp sản phẩm công nghiệp phụ trợ đạt hiệu quả và chất lượng tốt.
3.2.2. Những giải pháp công nghiệp ở địa phương để thu hút công nghiệp hỗ trợ từ Nhật Bản
Đây là vấn đề cốt lõi xây dựng định hướng thu hút đầu tư của địa phương. Trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, phân tích các lợi thế so sánh của địa phương để xác định có thu hút phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh hay không? Khi đã xác
Có thể bạn quan tâm!
- Kim Ngạch Hàng Hóa Xuất Khẩu, Nhập Khẩu Và Cán Cân Thương Mại Việt Nam- Nhật Bản Giai Đoạn Năm 2005- 2012 Và 11 Tháng Năm 2013
- Những Thuận Lợi Khi Thâm Nhập Vào Thị Trường Nhật Bản
- Những Khó Khăn Trong Quan Hệ Việt Nam – Nhật Bản
- Quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản trong bối cảnh mới giai đoạn 2008-2013 - 12
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
định nhu cầu cần thiết phải phát triển công nghiệp hỗ trợ, nên rà soát lại quy hoạch phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn. Từ đó căn cứ vào yêu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản để xác định bố trí quy hoạch khu công nghiệp dành riêng cho phát triển công nghiệp hỗ trợ. Vị trí quy hoạch cần thỏa mãn nhu cầu xây dựng khu công nghiệp kết hợp với đô thị mới.Chuẩn bị các điều kiện về môi trường pháp lý và nhân lực.
Cần nghiên cứu các chính sách khuyến khích, ưu đãi phát triển công nghiệp hỗ trợ của Nhà nước, vận dụng có hiệu quả vào điều kiện của địa phương, xây dựng các chính sách khuyến khích ưu đãi riêng của địa phương nhưng không trái với quy định của pháp luật.
Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, hoàn chỉnh cơ chế “một cửa tại chỗ”, nên có dịch vụ một cửa bằng tiếng Nhật, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư khi tiến hành các thủ tục hành chính trong đầu tư, nhất là nhà đầu tư công nghiệp hỗ trợ Nhật Bản. Chú trọng đào tạo các nghề lao động kỹ thuật liên quan đến ngành công nghiệp hỗ trợ (cơ khí, điện, điện tử, hàn, cắt gọt kim loại, công nghệ thông tin…) để đạt được trình độ các doanh nghiệp Nhật Bản yêu cầu. Đặc biệt đào tạo ngoại ngữ tiếng Nhật và văn hóa, tác phong kỷ luật lao động của người Nhật
Chuẩn bị các điều kiện về hạ tầng cơ sở. Trên cơ sở quy hoạch khu công nghiệp dành riêng cho công nghiệp hỗ trợ, bố trí nguồn lực và tiến hành đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật thiết yếu ngoài hàng rào. Đồng thời kêu gọi thu hút các nhà đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp-đô thị đồng bộ. Như trên đã đề cập, đây là điều kiện cần thiết tuyệt đối để thu hút được các nhà đầu tư công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản. Việc xây dựng loại khu công
nghiệp-đô thị này nên kêu gọi các nhà đầu tư hạ tầng từ Nhật Bản góp vốn và nên thuê các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp từ Nhật Bản.
Tăng cường xúc tiến đầu tư và đối ngoại nhân dân. Khi đã chuẩn bị cơ bản các điều kiện, cần tiến hành đồng bộ các biện pháp xúc tiến đầu tư tại thị trường Nhật Bản. Có thể phải mở văn phòng giao dịch tại Nhật Bản để cung cấp thông tin đầu tư và giải quyết ngay các thủ tục đầu tư cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản. Tận dụng sự giúp đỡ của các tổ chức xúc tiến đầu tư của Nhật Bản như JICA, JETRO…, các “cần ăng ten thu hút đầu tư nước ngoài” – tham tán kinh tế của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nằm tại Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản để quảng bá hình ảnh của tỉnh. Tăng cường công tác đối ngoại nhân dân nhằm nâng cao tình đoàn kết, hợp tác hữu nghị giữa các tổ chức chính trị-xã hội, xã hội nghề nghiệp và nhân dân trong tỉnh với các tổ chức và nhân dân Nhật Bản. Thông qua đối ngoại nhân dân để các nhà đầu tư Nhật Bản cảm thấy tin tưởng, gần gũi, gắn bó và yên tâm khi đầu tư tại địa phương.
3.2.3. Giải pháp chủ động từ phía doanh nghiệp
Xây dựng một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu hợp lý và có hiệu quả cao phù hợp với mục tiêu phát triển một nền kinh tế bền vững; tiếp tục đổi mới hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngoại thương Việt Nam theo hướng năng động phù hợp với thông lệ quốc tế, thị trường Nhật Bản và lợi ích phát triển kinh tế Việt Nam.
Sản xuất hàng hoá đảm bảo yêu cầu chất lượng. Càng ngày các quốc gia trên thế giới trong đó có Nhật Bản càng đặt ra nhiều các rào cản thương mại tinh vi, phổ biến nhất là các rào cản kỹ thuật. Trước tình hình đó thì không còn cách nào khác cho doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu hàng hóa sang Nhật là phải sản xuất ra các hàng hóa đạt yêu cầu về chất lượng, tiêu chuẩn về
quy trình sản xuất của Nhật Bản. Hơn nữa, đảm bảo chất lượng cũng chính là một cách giữ mối quan hệ bạn hàng với đối tác. Chúng ta phải tích cực đưa vào sử dụng các công nghệ tiên tiến thân thiện với môi trường, có thể nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến từ Nhật Bản . Như thế vừa nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam vừa thúc đẩy trao đổi thương mại quốc tế Việt – Nhật
Để có thể trở thành các nhà cung cấp linh, phụ kiện cho các hãng nước ngoài, cần chú trọng tuân thủ 3 nguyên tắc bất di bất dịch khi cộng tác với các đối tác nước ngoài: Đảm bảo giao hàng đúng hạn; chất lượng sản phẩm luôn ổn định; và giá cả luôn cạnh tranh. Đối với các doanh nghiệp FDI, tiêu chuẩn để lựa chọn đối tác là chỉ những doanh nghiệp nào đáp ứng được đủ các điều kiện về chất lượng, thời gian giao hàng thì mới được chọn.Các linh kiện chỉ đạt từ 80- 90% chất lượng tiêu chuẩn để lắp ráp vào sản phẩm hoàn chỉnh sẽ không được chấp nhận.Điều này là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp trong nước, đặt ra yêu cầu cho các công ty này phải tự trau dồi để nâng cao năng lực, cải tiến chất lượng. Một số nhà cung cấp trong nước hiện là đối tác của các công ty liên doanh, công ty vốn đầu tư nước ngoài đã phải bỏ nhiều công sức tìm hiểu đối tác, nắm bắt công nghệ và cách quản lý, điều hành của các công ty Nhật, bên cạnh đó là đầu tư thiết bị, nhà xưởng, cải tạo điều kiện làm việc, áp dụng các tiêu chuẩn ISO…
Đẩy mạnh hoạt động marketing xuất khẩu. Marketing xuất khẩu là tất cả các hoạt động nhằm giúp các doanh nghiệp đưa hàng hóa xuất khẩu ra thị trường bên ngoài. Bao gồm: nghiên cứu nền kinh tế của đối tác (kể cả chính trị, luật pháp, môi trường VH-XH), phát triển sản phẩm và đưa ra chính sách giá cả phù hợp với thị trường mục tiêu và cuối cùng là thực hiện các hoạt động quảng bá sản phẩm tại thị trường đó thông qua các kênh phân phối, quảng cáo, tiếp thị.
Tìm hiểu về đối phương là yếu tố đầu tiên phải bàn đến khi muốn làm ăn với bất kì một đối tác nào. Bên cạnh đó, thị trường luôn biến động và các xu hướng, thị hiếu khách hàng về sản phẩm thay đổi liên tục. Do đó, doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam cần nắm vững thông tin về thị trường Nhật Bản, thực hiện các cuộc khảo sát thị trường định kỳ và chủ động cập nhật thông tin thông tin liên tục để có chiến lược kinh doanh phù hợp. Ví dụ ngay gần đây là vụ động đất ngày 11/3 tại Nhật Bản, các doanh nghiệp Việt Nam cần theo sát diễn biến sư kiên này và phân tích đánh giá nhu cầu thị trường, tận dụng cơ hội này để xuất khẩu hàng hóa thiết yếu có giá rẻ chất lượng tốt sang Nhật Bản.
Trong thời buổi hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, khi trình độ sản xuất thế giới đã phát triển hơn rất nhiều , yếu tố con người ngày càng đóng vai trò trọng tâm quyết định. Nhật Bản nổi tiếng thế giới với những con người mẫn cán có tính kỷ luật và tổ chức cao nên khi hợp tác với người Nhật doanh nghiệp Việt cũng cần tạo nên hình ảnh tốt đẹp trong mắt đối tác. Để đạt được những mục tiêu trên thì doanh nghiệp phải có đội ngũ nhân viên giỏi về chuyên môn, sáng tạo, năng động, nhiệt tình và có tinh thần kỷ luật cũng như tinh thần trách nhiệm cao. Do đó, họ cần chủ động đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ ở bộ phận xuất nhập khẩu và nâng cao kỹ năng tổ chức quản lý của bộ máy lãnh đạo doanh nghiệp, nghiêm khắc xử lý các trường hợp tư lợi cá nhân làm ảnh hưởng xấu đến danh tiếng cũng như sự phát triển chung của doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Quan hệ kinh tế- thương mại Việt Nam và Nhật Bản là một trong những mối quan hệ lớn, ổn định, lâu dài trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của nước ta. Hơn nữa nước ta nằm trong khu vực châu Á và là thành viên của khối các nước ASEAN nên chúng ta cùng chịu tác động chiến lược kinh tế tài chính của Nhật Bản đối với khu vực châu Á và của khối ASEAN đối với Nhật Bản. Quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản đã có nhiều những bước chuyển biến tích cực trong giai đoạn 2008-2013. Trong những năm qua tình hình thương mại của 2 nước khá phát triển, Việt Nam và Nhật Bản có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển quan hệ thương mại và đầu tư. Từ đó thúc đẩy sự phát triển trên những lĩnh vực khác như chính trị, văn hóa.
Tăng cường hợp tác kinh tế với Nhật Bản nhằm tranh thủ các lợi ích kinh tế có được, phục vụ cho sự nghiệp kinh tế- xã hội, nhưng đồng thời để giảm tối thiểu sự phụ thuộc kinh tế vào Nhật Bản cũng như tác động xấu đến chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong thời gian tới, chúng ta cần xây dựng những chiến lược cụ thể trong quan hệ kinh tế và quan hệ đối ngoại với Nhật Bản trên quan điểm: Đánh giá đúng chiến lược kinh tế các nước trong khu vực, các tổ chức quốc tế, thấy rõ những điểm bất đồng giữa ta và họ, củng cố tăng cường các điểm chung, không bỏ lỡ thời cơ hợp tác để tránh những bất đồng về lợi ích giữa các bên.
Đề tài nghiên cứ u trên đã cho chúng ta một cái nhìn tổng quan về mối quan hê ̣thương maị Viêṭ Nam – Nhâṭ Bản dưới những tác động chủ quan và
khách quan từ môi trường thế giới, bản thân tiềm lực hai nước để chỉ ra thưc tế
hoạt động thương mại thông qua một số số liệ u cu ̣thể trong những năm gần đây . Và cuối cùng như mục đích nghiên cứu đã nêu , đề tài đưa ra đánh giá cả về mặt