Quan Hệ Đa Phương Về Chính Trị - Ngoại Giao, An Ninh Đa Phương Của Asean Với Trung Quốc Và Nhật Bản

chiếu lần thứ hai được tổ chức tại Tokyo, với nội dung xoay quanh lĩnh vực du lịch, tội phạm liên quan đến hộ chiếu và biện pháp đối phó với các hành vi giả mạo, có Nhật Bản và ASEAN tham dự. Khi xảy ra vụ đánh bom tại Bali (năm 2002), Nhật Bản nhanh chóng gửi các chuyên gia vân tay đến Jakarta để hỗ trợ việc xác định những kẻ khủng bố. Đồng thời, Nhật Bản còn giúp các nước ASEAN nâng cấp hàng không và an ninh cảng biển; hỗ trợ cải cách trong lĩnh vực cảnh sát và tư pháp của Indonesia để giám sát hiệu quả các luồng hàng hóa và hành khách trên các tuyến đường biển và đường không. Tháng 10 năm 2005, Nhật Bản thực hiện một khóa đào tạo cho các cán bộ thực thi pháp luật hàng hải ASEAN, Trung Quốc và Hàn Quốc. Nhận thấy các quốc gia ven biển, đặc biệt là Indonesia cần công nghệ từ các nước bên ngoài, do đó Nhật Bản đã hỗ trợ bằng cách cung cấp công nghệ, các nguồn lực khác nhằm xây dựng năng lực hàng hải cho quốc gia này. Thủ tướng Shinzo Abe bày tỏ sẵn sàng tăng cường đóng góp cho an ninh của eo biển Malacca trong cuộc gặp lãnh đạo Indonesia và Malaysia năm 2007 [170, tr.179]. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN – Nhật Bản (11/2007), Thủ tướng Yasuo Fukuda tuyên bố quyết tâm của Nhật Bản trong việc hợp tác với ASEAN để giải quyết các vấn đề như dịch cúm gia cầm, khủng bố, môi trường và an ninh hàng hải và tham gia vào phát triển khu vực sông Mekong. Phản ứng của ASEAN là tán thành đề nghị của phía Nhật Bản [170, tr.180].

Một sự kiện nổi bật phản ánh tính hiệu quả trong quan hệ ASEAN và Nhật Bản là trận động đất sóng thần ở Ấn Độ Dương. Ngày 26 tháng 12 năm 2004, trận động đất song thần đó đã dẫn đến cái chết và mất tích của gần 300.000 người. Theo những văn kiện hợp tác với ASEAN, Nhật Bản đã nhanh chóng điều động 3 tàu từ các đơn vị phòng vệ biển (MSDF) tiến hành hoạt động tìm kiếm cứu hộ ngoài khơi bờ biển Thái Lan và Indonesia. Trong khi đó, tàu và máy bay của SDF thực hiện chuyển vận hàng cứu trợ, dịch vụ y tế đến các khu vực thảm họa. Tính đến ngày 20 tháng 1 năm 2005, đã có sự hiện diện gần 1000 người thuộc SDF, với kết quả là, về cứu hộ: 5.930 người; vận chuyển người và hàng hóa: khoảng 3545 người và 387,4 tấn hàng hóa; chích ngừa: 2.277 người đã được tiêm vaccine phòng bệnh sởi; khu vực phòng dịch: 133.800 mét vuông [169, tr.157].

Quan hệ ASEAN và Nhật Bản trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống còn mở rộng và có dấu ấn trong các vấn đề môi trường, phòng chống dịch bệnh, an ninh kinh tế...Chẳng hạn, đối với đại dịch SARS năm 2003, Nhật Bản cung cấp hai tỷ

Yên hỗ trợ tài chính cho các nước bị ảnh hưởng bao gồm Trung Quốc, Campuchia, Indonesia, Lào, Myanmar, Philippines và Việt Nam. Nhật Bản đã tiến hành nhiều biện pháp để ngăn chặn dịch cúm gia cầm lây lan trong khu vực [170, tr.178]. Dấu ấn rõ nhất về quan hệ ASEAN và Nhật Bản là trong lĩnh vực an ninh kinh tế. Có thể thấy, trọng tâm trong kế hoạch an ninh quốc gia của các nước là kinh tế [72, tr.32]. Trên tinh thần đó, ASEAN – những quốc gia giàu về tài nguyên, nhưng lạc hậu về khoa học – công nghệ muốn khắc phục khó khăn kinh tế để phát triển bền vững phải cần đến vai trò của các đối tác lớn, bao gồm Nhật Bản. Sau Chiến tranh lạnh, dù kinh tế các nước ASEAN tăng trưởng mạnh nhưng về cơ bản vẫn thiếu yếu tố bền vững. Cuộc khủng hoảng tài chính 1997 là minh chứng, nó không chỉ phá hủy Đông Nam Á về kinh tế mà còn làm lung lay nhiều thể chế chính trị ở một số quốc gia như Indonesia, Thái Lan. Tự thân các nước ASEAN không thể xoay chuyển được tình hình mà phải dựa vào sự giúp đỡ của các cường quốc bên ngoài, trong đó Nhật Bản đóng vai trò lớn như đã đề cập. Hơn nữa, trong quá trình mở rộng thành viên, khoảng cách giàu nghèo giữa các nước cũ và mới trong ASEAN là trở lực không nhỏ đối với quá trình củng cố hợp tác nội khối nói riêng và con đường phát triển của tổ chức này nói chung. Lãnh đạo ASEAN cũng nhận thức sâu sắc rằng, nền tảng vững chắc của khu vực là phải dựa trên sự ổn định chính trị – xã hội, thịnh vượng kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển, xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội. Trong hoàn cảnh đó, ASEAN “cần Nhật Bản giúp giải quyết các khó khăn kinh tế và đóng vai trò lãnh đạo trong việc phục hồi các nền kinh tế ASEAN, vượt qua những trở ngại của việc lấp hố ngăn cách giữa các thành viên cũ và mới” [42, tr.253]. Sự hợp tác kinh tế của Nhật Bản với khu vực Đông Nam Á thông qua con đường đầu tư, thương mại và viện trợ rất đáng ghi nhận. Ví dụ, trong năm 2006, ODA của Nhật Bản chiếm 23% của tổng số hỗ trợ cho khu vực Đông Nam Á. Về thương mại với ASEAN, Trung Quốc chiếm 12% trong năm 2007, trong khi thị phần của Nhật Bản là 11% [170, tr.176]. Theo một tài liệu ASEAN cho biết, ODA của Nhật Bản kéo dài đến hơn 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; ASEAN chiếm khoảng 9,4% tương đương 700 triệu USD trong tổng số ODA đó. Nhật Bản là nhà tài trợ ODA lớn nhất cho ASEAN và cũng là nhà đầu tư hàng đầu của ASEAN. Năm 2007 có khoảng 6.000 công ty của Nhật Bản đang hoạt động tại Đông Á thì phần lớn trong số đó tập trung ở các quốc gia ASEAN [121, tr.101].

Để thu hẹp khoảng cách kinh tế nội khối ASEAN, nguồn vốn ODA của Nhật Bản tập trung vào phát triển nguồn nhân lực cũng như sự phát triển của khu vực sông Mekong bao gồm bốn thành viên mới của ASEAN là Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam; và Thái Lan. Hiện nay, ASEAN đang ở giai đoạn cuối trong lộ trình xây dựng Cộng đồng, trong đó Cộng đồng kinh tế là trụ cột cần được thúc đẩy nhằm kiến tạo nền tảng vững chắc cho hợp tác nội khối cũng như đem đến nguồn lực to lớn giúp ASEAN thực hiện thành công hai trụ cột còn lại. Mục tiêu là như vậy, những để hiện thực hóa nó đòi hỏi ASEAN cần những nỗ lực mới, bao gồm việc tăng cường củng cố sâu sắc mối quan hệ với các đối tác bên ngoài, trong đó Nhật Bản là một đối tác quan trọng. Thực tế, thông qua quan hệ với Nhật Bản, ASEAN phần nào giải tỏa được nhu cầu đó. Trái với định kiến rằng, Nhật Bản chỉ là một người khổng lồ kinh tế thụ động, nhưng thực ra nó đã đóng một vai trò an ninh nhất định, thể hiện qua hoạt động tại Đông Nam Á, nhất là trong các tình huống thảm họa hay khủng hoảng. Nhật Bản đã cung cấp, hỗ trợ tài chính lớn và các thỏa thuận hoán đổi tiền tệ giải quyết hậu quả khủng hoảng tài chính châu Á 1997 để ổn định nền kinh tế khu vực và tăng cường sự ổn định xã hội và chính trị; tham gia kiến tạo hòa bình ở Campuchia và Aceh; cung cấp, hỗ trợ tài chính và y tế khi Đông Á bị ảnh hưởng bởi đại dịch SARS. Nhật Bản đã triển khai quân đội lớn nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai để hỗ trợ nhân đạo cho Aceh bị ảnh hưởng sóng thần vào đầu năm 2005. Trong lĩnh vực an ninh, an ninh phi truyền thống là hướng đi phù hợp với xu thế hiện tại ở khu vực Đông Nam Á và cũng rất phù hợp với việc mở rộng vai trò của Nhật Bản bởi “ký ức về thời kỳ chiến tranh xâm lược ở châu Á buộc Nhật Bản phải cẩn trọng trong việc mở rộng vai trò quân đội [157, tr.3]. Hơn nữa, các thành viên ASEAN vẫn không ngừng quan tâm đến vai trò quân sự trong tương lai của Nhật Bản ở Đông Á [148, tr.7]. Vì thế, quan hệ an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh hàng hải với ASEAN là thích hợp, sẽ “mở ra một cánh cửa cho Nhật Bản sử dụng sức mạnh ngoại giao của mình trong các vấn đề an ninh ở khu vực” [162, tr.8]. Đây chính là cơ sở thúc đẩy quan hệ an ninh giữa ASEAN với Nhật Bản trong thời gian tới.

Trải qua 37 năm thiết lập quan hệ (1973 – 2010), ASEAN và Nhật Bản không ngừng tạo lập các cơ chế hợp tác, mở rộng nội hàm hợp tác theo chiều hướng ngày càng toàn diện nhằm hướng tới mục tiêu ổn định và thịnh vượng của mỗi bên lẫn cả khu vực. So với quan hệ ASEAN – Trung, quan hệ ASEAN – Nhật Bản tương đối

ổn định. Từ những nỗ lực của mình, ASEAN đã tạo dựng môi trường và lôi kéo các đối tác bên ngoài, nhất là các nước lớn, bao gồm Nhật Bản để cùng nhau phát triển và giải quyết những thách thức mà cả hai cùng quan tâm. Trong khi đó, thông qua quan hệ với ASEAN, Nhật Bản đã đạt được những thành công trong việc xác lập vai trò chính trị tại khu vực Đông Nam Á. Lý giải về hiện tượng này, nhà nghiên cứu Lam Peng-Er thuộc Đại học Quốc gia Singapore cho rằng, đối với Nhật Bản thì Đông Nam Á có ba lợi thế khi đem so sánh với khu vực Đông Bắc Á. Trước hết, không giống như mối quan hệ với Trung Quốc, Hàn Quốc và Triều Tiên, quan hệ của Nhật Bản với các quốc gia Đông Nam Á không gay gắt bằng do những tác động của thời kì Chiến tranh thế giới thứ hai … Hơn nữa, sự chiếm đóng của Nhật Bản ở Đông Nam Á là tương đối ngắn so với các nước trên. Thứ hai, không giống như Nga, Trung Quốc và Hàn Quốc, các nước Đông Nam Á không có tranh chấp lãnh thổ với Nhật Bản. Thực hiện chính sách bồi thường hòa giải chiến tranh, Nhật Bản đã trở thành nhà đầu tư và hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) được chào đón ở khu vực này. Thứ ba, môi trường an ninh ở Đông Nam Á thuận lợi hơn ở Đông Bắc Á để Nhật Bản theo đuổi các sáng kiến ngoại giao của mình [143, tr.1-2]. Về khía cạnh an ninh, Nhật Bản không đóng vai trò quân sự trực tiếp nhưng vẫn hiện diện với vai trò gián tiếp ở Đông Nam Á, bằng cách cung cấp căn cứ quân sự và hỗ trợ hậu cần cho đồng minh chiến lược Hoa Kỳ tại khu vực.

Mặc dù có những thành công đáng ghi nhận, tuy nhiên, quan hệ ASEAN – Nhật Bản, nhất là nhìn từ phía Nhật Bản đang bị hai yếu tố ngáng đường. Trước hết, Nhật Bản đã phải chịu đựng sự trì trệ về kinh tế kéo dài hơn một thập kỷ, nên ít có khả năng và sẵn sàng hào phóng về ODA với các nước ASEAN như trước đây. Thứ hai, sự trỗi dậy của Trung Quốc đang mở rộng và không ngừng củng cố ảnh hưởng kinh tế và chính trị tại khu vực [143, tr.3]. Điều này buộc cả ASEAN và Nhật Bản phải có những tính toán chiến lược hợp lý và kịp thời, nhất là với Nhật Bản nếu không muốn bị đóng một vai phụ trong “bàn cờ” chính trị Đông Nam Á nói riêng và Đông Á nói chung.

2.3. Quan hệ đa phương về chính trị - ngoại giao, an ninh đa phương của ASEAN với Trung Quốc và Nhật Bản

Tập trung chủ yếu vào cặp quan hệ song phương ASEAN – Trung Quốc, ASEAN – Nhật Bản như được trình bày, tuy nhiên trong quá trình phát triển do những nảy sinh xuất phát từ thực tiễn, các quốc gia thấu hiểu và chia sẻ những

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 246 trang tài liệu này.

điểm tương đồng trong nhận thức để có những nỗ lực hợp tác chung nhằm hóa giải các thách thức mang tính khu vực và toàn cầu. Nằm trong xu thế ấy, quan hệ chính trị, an ninh giữa ba thực thể trên dần dần mở rộng ra cả hai cấp độ song phương lẫn đa phương.

2.3.1. Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao

Quan hệ chính trị - ngoại giao, an ninh của ASEAN với Trung Quốc và Nhật Bản 1991 - 2010 - 16

Để đối phó với tình hình “đang có những thay đổi nhanh chóng với nhiều nhân tố bất ổn có thể gây nên mất ổn định ở khu vực” [10, tr.165], một mặt, ASEAN thúc đẩy hơn nữa quan hệ với các đối tác bên ngoài, bằng cách linh hoạt tạo dựng các cơ chế hợp tác mới như ARF, ASEAN + 3, Hợp tác Đông Á…Mặt khác, ASEAN mong muốn đưa các cường quốc, nhất là Trung Quốc vào một khuôn khổ ở Đông Nam Á. Thực tế, cho tới đầu những năm 90 của thế kỉ XX, Trung Quốc vẫn chưa tham gia một tổ chức hợp tác đa phương nào tại khu vực, thậm chí tỏ thái độ lạnh nhạt với chủ nghĩa đa phương. Vì vậy, để người khổng lồ Trung Quốc đứng ngoài các tổ chức hợp tác đa phương sẽ tạo điều kiện cho họ được tự do hành động. Dẫu rằng đến năm 1991, ASEAN đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc nhưng rõ ràng, các quốc gia ASEAN “vẫn chưa yên tâm về nước láng giềng phương Bắc” [50, tr.87]. Bởi thế, ngay khi Chiến tranh lạnh sắp vãn cuộc, ASEAN bắt đầu tìm kiếm các biện pháp để đối phó với những thách thức an ninh mới. Một trong những bằng chứng như vậy là năm 1991, ASEAN đã tổ chức Hội thảo với tiêu đề “ASEAN và khu vực châu Á – Thái Bình Dương: Triển vọng về hợp tác an ninh trong những năm 90”. Đây chưa nằm trong khuôn khổ ASEAN, nhưng cho thấy ASEAN đã manh nha tìm kiếm một vai trò an ninh không chỉ bó hẹp tại Đông Nam Á mà muốn mở rộng ra ngoài khu vực. Đến Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IV (1/1992), chương trình nghị sự an ninh chính thức bắt đầu được thể chế hóa. Tuyên bố Singapore khẳng định: ASEAN “có thể thiết lập các diễn đàn để thúc đẩy đối thoại với bên ngoài nhằm tăng cường an ninh trong khu vực cũng như các cuộc đối thoại trong nội bộ ASEAN về hợp tác an ninh” [148, tr.4].

Trên cơ sở đó, tháng 7 năm 1993, ASEAN đề xuất khuôn khổ đa phương khu vực đầu tiên là ARF. Đáp lại mong đợi của ASEAN, Trung Quốc và Nhật Bản có phản ứng tích cực, thể hiện là họ đã tham gia ARF với tư cách là các thành viên sáng lập. Bằng những nỗ lực của ASEAN, cùng với sự đồng thuận của 12 thành viên khác, trong đó có Trung Quốc và Nhật Bản, ngày 25 tháng 7 năm 1994, ARF đã hiện thực hóa. Giáo sư Michael Yahuda bình luận: “Nhật Bản đóng một vai trò

trọng yếu, “một lãnh tụ hậu trường”, trong việc thành lập hai tổ chức kinh tế và an ninh chủ yếu của khu vực là APEC và ARF” [126, tr.434]. Chính Thủ tướng Nhật Bản Hosokawa đã tuyên bố trong cuộc họp thượng đỉnh APEC năm 1993 tại Seattle (Mỹ), rằng: “Không muốn thấy diễn đàn bị thể chế hóa…Chủ nghĩa khu vực phải được dựa trên cơ sở tôn trọng tính đa dạng của khu vực và nên chấp nhận các nguyên tắc cởi mở” [15, tr.337]. Ý kiến trên đây rất phù hợp với quan điểm của ASEAN và có tính chất định hướng phát triển thể chế tại khu vực.

ARF là sự kiện mở đầu cho một cơ chế an ninh khu vực tại châu Á – Thái Bình Dương: “một cơ cấu an ninh mở rộng, bao gồm tất cả các cường quốc trong khu vực, chưa bao giờ tồn tại ở châu Á – Thái Bình Dương” [68, tr.313]. Cả Trung Quốc và Nhật Bản đều tán thành nền tảng ARF được đặt cơ sở trên mô hình an ninh khu vực của ASEAN, tức là thừa nhận cơ chế đối thoại nhằm tránh và quản lý xung đột cũng như vai trò lãnh đạo của ASEAN trong diễn đàn này. Tuyên bố thành lập nhấn mạnh, ARF đặt dưới sự chủ trì của nước chủ tịch ASEAN. Với sự hiện diện của Mỹ, Nga, trong đó có Trung Quốc và Nhật Bản, ARF là một minh chứng về vai trò của ASEAN “là tổ chức khu vực duy nhất của các nước đang phát triển có khả năng tập hợp tất cả các cường quốc lớn và hùng mạnh nhất thế giới xung quanh mình để thảo luận về các vấn đề an ninh khu vực và quốc tế có liên quan” [73, tr.500]. Đồng thời tại ARF, ASEAN và Trung Quốc có quan điểm tương đồng về các giai đoạn cũng như nhịp độ tiến triển của diễn đàn này. Dù mong muốn thúc đẩy nhanh tiến trình ARF và muốn thay đổi nguyên tắc không can thiệp bằng can thiệp linh hoạt…nhưng cuối cùng Nhật Bản cũng đồng ý với ARF như hiện có. Ở Hội nghị ARF lần thứ 7 (7/2000), các thành viên đều nhất trí việc ARF khi vận động lên phía trước cần phát triển với tốc độ phù hợp với tất cả các nước tham gia.

Tuy nhiên, ARF chỉ đơn thuần là một cơ chế hợp tác an ninh và còn khá lỏng lẻo, do đó chưa thể đáp ứng nguyện vọng của ASEAN về hợp tác nếu xét ở một mức độ toàn diện trong khuôn khổ đa phương nhằm khai thác triệt để cơ hội phát triển, nhất là kinh tế từ các đối tác lớn bên ngoài. Hơn nữa, mặc dù đã là đối tác đối thoại đầy đủ từ năm 1996, nhưng mãi tới tháng 12 năm 1997 vẫn thiếu vắng sự hiện diện các nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc tại Hội nghị cấp cao ASEAN. Đây là một điểm khuyết mà ASEAN cần nhanh chóng bổ sung. Khi cuộc khủng hoảng 1997 xảy ra, Nhật Bản đề xuất về cuộc họp cấp cao với ASEAN. Nhận thấy đây là một cơ hội, bởi thế ASEAN đã đề nghị một cuộc họp cấp cao với cả ba nước Trung

Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Với sự tán thành của họ, ngày 14 tháng 12 năm 1997, hội nghị cấp cao lần thứ hai diễn ra tại Kuala Lumpur (Malaysia), với sự hiện diện của 13 nhà lãnh đạo Đông Á, chính thức khai sinh cơ chế hợp tác đa phương ASEAN + 3. Một lần nữa, ASEAN thể hiện dấu ấn trong cơ chế ASEAN +3, bởi Trung Quốc và Nhật Bản đều ủng hộ quan điểm nguyên tắc hoạt động của ASEAN là cơ sở vận hành của ASEAN + 3. Từ đó, cả ba thực thể này đã cùng nhau hợp tác thúc đẩy ASEAN +3 đi về phía trước bằng cách vạch ra mục tiêu cũng như đề xuất các biện pháp hợp tác và xây dựng thể chế. Theo đó, nội dung chính của cơ chế hợp tác bao gồm các Hội nghị cấp cao, các kỳ gặp mặt của các nguyên thủ quốc gia, các cấp bộ trưởng; và Hội nghị thượng đỉnh với tên gọi là hội nghị cấp cao Đông Á lần đầu tiên được tổ chức tại Kuala Lumpur vào cuối năm 2005 [28, tr.87]. ASEAN, Trung Quốc và Nhật Bản đều mong muốn ASEAN +3 “giúp duy trì môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực và nâng cao vị thế của Đông Á trong nền chính trị và kinh tế thế giới” [50, tr.156]. Cùng với những toan tính chiến lược riêng, cả ba thực thể trên đều có những động thái để thúc đẩy tiến trình ASEAN +3. Đối với ASEAN, ASEAN +3 là cơ chế để xác lập vai trò lãnh đạo của tổ chức này, đồng thời là sự “bảo hiểm” an ninh khi “Nhật Bản được coi như là đóng vai trò đối trọng với Trung Quốc” [126, tr.435] nhằm kiềm chế những tham vọng của họ tại khu vực. Trong khi đó, Trung Quốc coi ASEAN+3 là khuôn khổ quan trọng nhất của vùng [46, tr.93]. Chính vì thế, nhằm thực chất hóa ASEAN+3, tháng 12 năm 1998, Phó Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đề xuất tổ chức cuộc họp cấp phó Thủ tướng tại Hội nghị cấp cao ASEAN

+3. Điều này cho thấy Trung Quốc có ý định đưa APT như kênh chính trong những nỗ lực của mình đối với chủ nghĩa khu vực châu Á. Kể từ khi quá trình APT được chính thức thể chế hoá vào năm 1999, người đứng đầu Chính phủ Trung Quốc là Chu Dung Cơ (1999 - 2002) và từ năm 2003 là Ôn Gia Bảo đều đến tham dự Hội nghị cấp cao hàng năm. Về phía mình, Nhật Bản đã có những phản ứng rất tích cực từ khi ý tưởng hình thành Hội nghị cấp cao không chính thức ASEAN +3 lần thứ 2 (12/1997). Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Yukihito Ikeda lúc đó cho biết: “Nhật Bản muốn để điều đó cho ASEAN quyết định xem liệu nhóm này có muốn mời Thủ tướng Nhật Bản tham dự chính thức hay không…vì chúng tôi đang mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ với ASEAN… và nếu có một dự án cụ thể từ phía ASEAN, chúng tôi muốn đáp ứng tích cực [49, tr.39-40]. Trong diễn văn đọc tại Singapore (14//12/1997), Thủ tướng Hashimoto đề nghị “một sự trao đổi rộng rãi và sâu sắc

hơn giữa Nhật Bản và ASEAN ở cấp cao và ở tất cả các cấp” [49, tr.51]. Sách xanh ngoại giao Nhật Bản (2001) cũng nhấn mạnh “hợp tác khu vực là một đặc điểm quan trọng của khu vực châu Á = Thái Bình Dương. Nhật Bản cần phải thúc đẩy đối thoại khu vực để tăng cường các mối quan hệ song phương [179, tr.390-391].

Tuy nhiên, sự song trùng trong lợi ích giữa ba thực thể này đối với ASEAN + 3 vẫn là lớn. Bởi thế, lãnh đạo ASEAN +3 không thôi cam kết về mặt chính trị nhằm tăng cường sức mạnh cho ASEAN +3. Chẳng hạn, nhân kỉ niệm 10 năm thành lập ASEAN +3 (2007), các nhà lãnh đạo đã chỉ rõ: “APT là một phần không thể tách rời của một cấu trúc khu vực đang phát triển, tăng cường và bổ sung cho ARF, Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) cũng như các diễn đàn khác” và tái khẳng định “hợp tác APT sẽ tiếp tục hỗ trợ hội nhập ASEAN với mục tiêu thực hiện Cộng đồng ASEAN và đóng một vai trò quan trọng trong những nỗ lực xây dựng cộng đồng khu vực vì mục tiêu dài hạn là hướng tới cộng đồng Đông Á với ASEAN là lực lượng chèo lái” [197]. Với quyết tâm của lãnh đạo Đông Nam Á và Đông Bắc Á, cho đến nay, ASEAN +3 đã triển khai 20 lĩnh vực hợp tác và trở thành một cơ chế hợp tác quan trọng của khu vực.

Như thế, với sự ra đời của ARF và ASEAN +3, ASEAN đã nâng cao cơ chế tham vấn khu vực và hiện thực hóa về ý tưởng hợp tác toàn diện, cụ thể là lĩnh vực an ninh và kinh tế với các đối tác Trung Quốc và Nhật Bản thông qua các cơ chế đa phương do mình tạo lập. Tuy nhiên, mục tiêu lâu dài mà cả ASEAN, Trung Quốc và Nhật Bản kì vọng là Hợp tác Đông Á mà điểm đến cuối cùng là xây dựng Cộng đồng Đông Á. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này, Hội nghị cấp cao ASEAN +3 lần thứ III (11/1999) tại Philippines đã ra Tuyên bố chung đầu tiên về Hợp tác Đông Á. Để đạt được Cộng đồng Đông Á, khu vực phải trải qua một lộ trình dài, nhưng dấu mốc đầu tiên là tổ chức Hội nghị cấp cao Đông Á. Ý tưởng của Malaysia đã được lãnh đạo ASEAN +3 chấp nhận năm 2004 và biến thành hiện thực vào năm 2005. Hội nghị cấp cao ASEAN+3 lần thứ 8 tại Vientiane (Lào), ngày 29 tháng 11 năm 2004 nhấn mạnh “việc thiết lập Cộng đồng Đông Á là một mục tiêu dài hạn. Chúng tôi tái khẳng định vai trò của tiến trình ASEAN +3 như là cỗ xe chính để thiết lập Cộng đồng Đông Á. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc tái khẳng định ủng hộ vai trò của ASEAN là lực lượng chèo lái chính trong Hợp tác Đông Á [196]. Hội nghị cấp cao Đông Á được tiến hành định kỳ hàng năm. Ngay khi mới ra đời, EAS đã có

Xem tất cả 246 trang.

Ngày đăng: 14/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí