Và:
Kìa dòng mương chảy cầu đương bắc Lò gạch xây cao, đường thẳng tắp Nơi đây kho thóc, nhà chăn nuôi Tiền đã lo xong, đất cắm rồi.
Anh làm chủ nhiệm đã ba năm Ba năm vật lộn cùng khó khăn.
(Anh chủ nhiệm)
Cấu trúc câu thơ gối sóng, tràn biên như thế chúng ta còn gặp ở nhiều bài thơ khác của Hoàng Trung Thông như: Đêm vằn chải, Tưởng nhớ, Cửa Tùng, Nhưng cuối cùng…Và đây là một đoạn thơ như thế:
Điệu dân ca chị Hoà cao giọng hát Những tiếng buông gần bắt tiếng rơi xa Những tiếng trầm trầm hoà tiếng ngân nga Những tiếng nghẹn ngào như lệ rỏ
Có thể bạn quan tâm!
- Triết Luận Về Các Vấn Đề Chính Trị Xã Hội :
- Phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông - 10
- Đặc Sắc Trong Giọng Điệu Thơ Hoàng Trung Thông.
- Phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông - 13
- Phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông - 14
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Những tiếng mơ màng như thoảng gió Thấp thoáng hình cô gái cuốc trên nương Bà Mẹ địu con lên dốc mờ sương.
(Đêm Vằn Chải)
Như vậy mỗi câu thơ (ngữ pháp) của Hoàng Trung Thông không dồn tụ ngữ nghĩa vào một câu thơ như trong thơ truyền thống mà tạo nên bằng cả một đoạn thơ chứa đựng không gian, thời gian hiện thực diễn tả. Hơn nữa, chúng lại được gắn kết bởi các thành phần ngữ pháp cùng những yếu tố liên
đới khác. Có lẽ vì thế mà nó tạo ra giọng điệu trữ tình – minh chiết trong thơ ông.
Lại một dạng tràn biên khác trong những câu thơ với lối diễn đạt vừa khúc chiết vừa rành mạch vừa trữ tình theo một điệu riêng. Một cách gối sóng “tâm tình”, khiến cho lời thơ Hoàng Trung Thông chảy liền mạch. Tạo nên nét duyên dáng, tình tứ riêng của nhà thơ. Người đọc có thể thấy trong thơ Hoàng Trung Thông nhiều cách diễn đạt và giọng điệu ngôn ngữ kiểu này:
–Phải chăng anh, người lái phà năm
trước
Chở suốt đêm dài xe nối xe…
(Chiều đến Bình Ca)
– Tôi vẫn nghĩ đi làm cách mạng
Đâu cũng là nhà đâu cũng quê hương.
(Về thăm quê) Tôi hỏi gió hỏi mây hỏi cây hỏi nước Quê hương ta một nửa đâu rồi.
(Sương mù bên kia sông Bến Hải)
Mẹ ơi, mẹ làm sao đứng nổi
Giữa tháng năm dài dằng dặc đạn bom
(Mẹ Bường) Ôi những chiều thứ bảy những chiều Người thân yêu tìm đến người thân yêu.
(Những chiều thứ bảy)
Cách gối sóng giữa các câu thơ gây ấn tượng rành rẽ về ngữ pháp, văn phạm đồng thời lại tạo mối quan hệ nối kết thiết tha thật lạ. Trước Hoàng Trung Thông cũng có một số cây bút có sử dụng câu thơ gối sóng kiểu này nhưng khác Hoàng Trung Thông ở chỗ cách gối sóng giữa các câu thơ của họ nhờ vào những từ nối ở câu trên và chảy tràn xuống những câu thơ sau đó.
– Tôi muốn sống cuộc đời thi sĩ để Uống say nồng nhưng chỉ thấy chua cay.
(Lựa tiếng đàn - Thế Lữ)
– Lúa ở đồng tôi và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng anh.
( Mùa xuân xanh - Nguyễn Bính)
3.2.1.2. Cách ngắt câu thành câu thơ bậc thang.
Cách ngắt câu thơ, dòng thơ thành các câu thơ bậc thang không phải là sáng tạo riêng của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Trước và sau ông đều có những tác giả viết theo lối này. Ở nước ngoài nhà thơ Maia côpxky thường sáng tác thơ theo hình thức này. Nhà thơ Nguyễn Duy trong bài thơ Tre Việt Nam cũng ngắt câu cuối thành:
Mai sau
Mai sau
Mai sau
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.
(Tre Việt nam)
Cách ngắt câu như thế trước và sau Hoàng Trung Thông đều có người sử dụng. Vậy cách ngắt câu thơ thành những dòng thơ bậc thang ở Hoàng Trung Thông có gì đặc biệt? Đọc thơ ông, người đọc thấy cách ngắt câu này xuất
hiện ngay từ đầu và tồn tại rải rác đến tập thơ cuối. Không phải ở bài nào ông cũng vận dụng cách ngắt câu đó mà chỉ ở những bài, những câu, những ý cần nhấn mạnh, cần tách bạch đến khúc chiết rõ ràng nhà thơ mới vận dụng. Cách ngắt câu này có tác dụng nhấn mạnh, khắc sâu sự chú ý của người đọc vào các sự kiện, hành động, trạng thái. Cách ngắt câu như thế có phần nào giống với biện pháp tách biệt trong thơ. Đây cũng là một nét độc đáo trong thơ Hoàng Trung Thông. Chúng ta gặp khá nhiều câu thơ dạng này trong thơ ông:
– Một dòng sông, một chiếc cầu
Như dòng lệ như hàm răng nghiến chặt Sương sương rơi trên miền Nam dày đặc Nhưng sau kia
lửa lửa
cháy lên rồi.
(Sương mù bên kia sông Bến Hải)
–“… Rừng muôn tay xanh biếc chập chùng Vây lấy con tàu
Con tàu nằm
nằm lâu
mệt mỏi
không nhả khói
Dặm đường xa còn xa…
(Đêm tây Bá Lợi á)
–… Tôi đã thấy trong những vườn táo trắng Hoa nở đầy
mái tóc đuổi theo nhau.
(…)
Tôi đã thấy bên góc tường mới dựng Tuyết rơi đầy
tay vuốt tóc trong gương.
(Những mái tóc)
– … Đôi lúc lại quá thừa Thừa gió,
thừa mây
Thừa giấy mực
thừa nắng
thừa mưa
Cũng thừa sách vở.
(Tâm sự)
3.3. Hình ảnh, mô típ.
3.3.1. Hình ảnh
3.3.1.1 Hình ảnh những con đường, những bước đi
Thơ Hoàng Trung Thông hay nói tới những con đường, những bước đi. Hình ảnh này thường thấy trong Đường chúng ta đi và Những cánh buồm. Đây là một khía cạnh của không gian nghệ thuật trong thơ ông. Đó không chỉ là những con đường, bước đi của một cá nhân mà còn là con đường, bước đi của mọi người, không chỉ là đường sang nước bạn mà còn là con đường ra thế giới. Trong các bài: Chiều đến Bình ca, Bên bờ Ban tích, Gửi Việt Bắc, Mỗi lần đi, Về thăm quê… nhà thơ đã dựng lên hình ảnh những con đường, những bước đi. Hình ảnh này được biểu hiện ở nhiều dạng thức khác nhau. Có khi
nhà thơ gọi thẳng Đường chúng ta đi, có khi được biểu hiện qua những chuyến đi (mỗi lần đi), hoặc trái với chuyến đi là sự trở về chốn cũ (Về thăm quê)… Thơ Hoàng Trung Thông thường gắn với những sự kiện, phong trào nổi bật, gắn với những chuyến đi thực tế. Sau mỗi chuyến đi công tác ông lại “như cây khô” được “tiếp nhựa đâm chồi”, Nhà thơ đã tâm sự như thế trong bài “Mỗi lần đi”:
Mỗi lần đi vai nặng ba lô
Mang nặng mồ hôi, nặng ước mơ Ôi tổ quốc ngày đi ngàn dặm Mỗi đoạn đườngrung một tứ thơ.
Hoàng Trung Thông chủ trương phải đi nhiều, thâm nhập vào thực tế đời sống để trang thơ tươi màu cuộc sống. Ông đã từng tự kiểm điểm mình, cảm thấy ân hận vì đã từng có lúc xa rời hơi thở ấm nồng của cuộc sống thực tại.
Bấy lâu bụi phủ trong phòng nhỏ Lấy cánh quạt trần làm cánh gió Bây giờ biển thổi gió bao la
Lảo đảo thuyền tim chừng muốn vỡ.
(Gió biển)
Có lẽ vì thế mà nhà thơ muốn “đi trong vạn dặm trời xuân” để “nghe quê xa hoà điệu với quê gần”. Hoàng Trung Thông luôn ấp ủ một ý nguyện và mải mê thực hiện:
Chân bước đi không kể gì năm tháng
Dù tối nặng mưa rơi, dù ngày tràn ánh sáng
Tôi ươm hồn trên những nẻo đường đi Như đồng quê ươm hạt giống thần kỳ.
(Đường chúng ta đi)
Nhờ những bước đi trên khắp mọi nẻo đường như thế, thơ Hoàng Trung Thông luôn ấm nồng chất hiện thực. Đọc thơ ông người đọc thấy được đời sống lao động nông nghiệp còn nhiều khó khăn vất vả nhưng đã, đang và sẽ hứa hẹn một ngày mai tươi sáng. Ở lĩnh vực đó nổi lên những người làm chủ tập thể, có trách nhiệm cao với công việc (Anh chủ nhiệm); có phong trào hợp tác hoá nông nghiệp; có công việc khai hoang vỡ hoá..v.v.. Người đọc còn thấy được cuộc chiến đấu của dân tộc ta theo sát với từng thời điểm lịch sử trong thơ ông ..v.v. nhà thơ không chỉ phản ánh hiện thực của đất nước mà còn phản ánh được cả hiện thực của nước bạn. (Bên bờ Ban tích, Đêm tây Bá lợi á, Bàn tay Sô panh, Bên bờ Bắc Hải, Trước tượng Ghếttô….)
3.3.1.2. Những hình ảnh gắn bó với nông thôn và miền núi
Mỗi nhà thơ thường chọn một vùng đất để thâm canh. Hoàng Trung Thông rất ít viết về thành thị, về nhà máy, công trường. Mảnh đất của ông là nông thôn và miền núi. Ở những nơi này, thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng, con người mộc mạc sâu đậm nghĩa tình. Phải chăng tạng tâm hồn Hoàng Trung Thông phù hợp, dễ rung cảm cùng những đối tượng ấy. Bài thơ đầu tiên của ông trình làng khiến người đọc bắt đầu chú ý đến là Bài ca vỡ đất (1948), bài ca về những người áo vải, “Cấy xanh núi đèo”. Trước sau Hoàng Trung Thông vẫn chung thuỷ với những con người như vậy.
Thơ Hoàng Trung Thông hay nói về việc “đào nương mở suối”, về cây, về cánh đồng, làng quê. Đây là những hình ảnh gắn bó với đất, với nông thôn.
Bám vào đất mà trăn trở, tìm tòi, Hoàng Trung Thông đã có nhiều bài thơ hay và có những sáng tạo trong hình thức biểu hiện. Nhà thơ “viết về đất đai đồng ruộng” với bao nhiêu tình nghĩa chan hoà với đất, gửi vào đất những yêu thương, hy vọng. Đất dầu dãi nắng mưa, lưng hằn vết đạn mà thủy chung với người từ cuộc kháng chiến trước (Bài ca vỡ đất,Ttrên mảnh đất này…). Đất mở chiến hào che chở. Đất hoá thân thành anh hùng, thành đồng chí của người trong chiến tranh chống Mĩ:
Đất ơi đất ơi
Đất bùn đất sỏi Mưa dầm nắng phơi Đất dù không nói Mà mang hồn người Cùng ta chống chọi Với quân cướp trời.
(Đào chiến hào)
Gắn bó với đất là hình ảnh người nông dân tập thể đấu tranh với thiên nhiên, cải tạo đồng ruộng giành sự sống. Thơ Hoàng Trung Thông hay nói về việc đào mương, mở suối, về cấy cày, đây chính là công việc cải tạo đồng ruộng, vỡ hoá khai hoang:
Đường xa ta tới đây Trên đồi cây khát nắng, Giữa hai dòng suối vắng Đoàn ta vui cấy cày. (...)
Suối chảy quanh ta