và niềm tin của cá nhân về đổi mới. Đánh giá chủ quan của các đối tác về sự đổi mới làm giảm sự không chắc chắn về sự đổi mới và tác động của những người xung quanh thường mang kết quả là đáng tin cậy hơn đối với cá nhân (Sherry, 1997). Các cá nhân tiếp tục tìm kiếm thông tin và thông tin đánh giá đổi mới trong giai đoạn này trước khi thông qua giai đoạn quyết định
- Giai đoạn quyết định: Ở giai đoạn quyết định, cá nhân chọn chấp nhận hoặc từ chối sự đổi mới. Trong khi việc nhận đổi mới đề cập đến việc sử dụng đầy đủ sự đổi mới làm phương thức hành động tốt nhất trong các phương thực hiện tại. Còn hành vi từ chối có nghĩa là không thể chấp nhận thông qua một sự đổi mới (Rogers, 2003). Nếu sự đổi mới có cơ sở thử nghiệm từng phần, thông thường nó được thông qua nhanh hơn, vì hầu hết các cá nhân đầu tiên muốn thử sự đổi mới trong tình huống của riêng họ và sau đó đi đến một quyết định thông qua. Rogers thể hiện hai loại từ chối hoạt động từ chối tích cực và từ chối thụ động. Trong một tình huống bị từ chối tích cực, một cá nhân cố gắng đổi mới và nghĩ về chấp nhận nó, nhưng sau đó người đó quyết định không chấp nhận nó. Một quyết định ngừng - từ chối một sự đổi mới - sau khi đã chấp nhận nó trước đó, có thể được xem như là một loại hoạt động loại bỏ tích cực. Trong một sự từ chối thụ động (hoặc không áp dụng) các cá nhân đơn giản là không nghĩ đến việc chấp nhận sự đổi mới. Rogers nói rằng thực tế phân loại hành vi từ chối này khó thể hiện trong thực nghiệm và thiếu các nghiên cứu cụ thể về nó. Trong xã hội có yếu tố văn hóa đặc thù như ở các nước phương Đông, trật tự về quá trình đổi mới có thể diễn ra theo kiểu quyết định đổi mới cá nhân ảnh hưởng và hình thành một quyết định đổi mới của cả tập thể (Rogers, 2003).
- Giai đoạn thực hiện: Ở giai đoạn thực hiện, một đổi mới chính thức được đưa vào thực tiễn. Tuy nhiên, một sự đổi mới mang lại sự mới mẻ nhưng không không chắc chắn về kết quả vẫn còn tồn tại. Vì vậy, người thực hiện có thể cần hỗ trợ kỹ thuật từ sự thay đổi của các cơ quan quản lý, chuyên gia và những người khác để giảm mức độ không chắc chắn về hậu quả. Hơn nữa, quyết định đổi mới có thể sẽ bị kết thúc trong giai đoạn này
khi nó không đảm bảo chất lượng đặc biệt ban đầu của nó (Rogers, 2003). Vì vậy, sự đổi mới cần có sự tái tạo thường xảy ra ở giai đoạn triển khai, Tái tạo sự đổi mới là liên tục cải tiến, thay đổi hoặc sửa đổi bởi một người sử dụng trong quá trình thông qua và thực hiện (Rogers, 2003). Ngoài ra, Rogers (2003) giải thích sự khác biệt giữa sáng chế và Đổi mới. Trong khi sáng chế là quá trình mà theo đó một ý tưởng mới được phát hiện hoặc tạo ra còn việc thông qua một đổi mới là quá trình sử dụng một ý tưởng hiện tại. Rogers tiếp tục thảo luận rằng vì tính chất đó thì đổi mới cần được cải tiến liên tục.
- Giai đoạn xác nhận
Quyết định đổi mới đã được thực hiện, nhưng ở giai đoạn xác nhận cá nhân tìm kiếm bằng chứng hỗ trợ cho quyết định của mình. Theo Rogers (2003), quyết định này có thể bị đảo ngược nếu cá nhân tiếp xúc với các thông điệp tiêu cực về sự đổi mới. Mặc dù vậy, trong giai đoạn này các cá nhân có xu hướng tránh xa những bàn luận tiêu cực, tìm kiếm những thông điệp ủng hộ xác nhận quyết định của họ. Như vậy, thái độ trở nên quan trọng hơn tại giai đoạn xác nhận. Tùy thuộc vào sự bằng chứng hỗ trợ tích cực cho việc thông qua đổi mới và thái độ của cá nhân mà chấp nhận hay từ chối đổi mới lại tiếp tục. Các cá nhân có thể từ chối sự đổi mới hiện tại để thông qua một đổi mới tốt hơn thay thế nó. Đây là loại quyết định ngừng được gọi ngừng do bị thay thế, còn có loại khác quyết định ngừng khác là ngừng do không đúng kỳ vọng. Trong trường hợp sau, cá nhân từ chối đổi mới bởi vì họ không hài lòng với hiệu suất mang lại, sự đổi mới không đáp ứng được kỳ vọng và nhu cầu của cá nhân. Do đó, các bằng chứng chứng minh sự đổi mới mang lại lợi ích tích cực cần được thể hiện một cách rõ ràng.
8.3. PHÂN LOẠI CÁC THÀNH VIÊN TRONG HỆ THỐNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH KHUẾCH TÁN SỰ ĐỔI MỚI
Rogers (2003) đã xác định phân loại các chủ thể tiếp nhận đổi mới là sự phân loại các thành viên của một hệ thống xã hội trên cơ sở sự sáng tạo của chủ thể đó. Tính sáng tạo là mức độ mà một đơn vị cá nhân hoặc đơn vị tiếp nhận tương đối sớm trong việc áp dụng những ý tưởng mới hơn so với các thành viên khác của một hệ
thống "(Rogers, 2003). Braak (2001) cho rằng sáng tạo đã giúp chủ thể hiểu được mong muốn và hành động của họ trong quá trình ra quyết định đổi mới. Do đó, ông phân loại người chấp nhận dựa trên tính đổi mới. Phân loại này bao gồm các nhà sáng tạo, người chấp nhận sớm, phần đông chấp nhận trước, phần đông chấp nhận sau và những người chậm trễ.
Người đổi mới đối với Rogers (2003) là những người sẵn sàng trải nghiệm những ý tưởng mới. Vì vậy, họ cần được chuẩn bị để đối phó với đổi mới không có lợi, không thành công và mức độ không chắc chắn về sự đổi mới. Những người đổi mới là người khởi động, thúc đẩy đưa sự đổi mới trong hệ thống. Khó khăn như vạy nên đòi hỏi những người đổi mới phải có kiến thức kỹ thuật phức tạp, có sự nghiên cứu và hiểu biết đi trước so với phần đông những chủ thể còn lại.
Người thừa nhận sớm là những người áp dụng sớm hạn chế hơn so với với ranh giới chung của hệ thống xã hội. Rogers (2003) lập luận rằng người thừa nhận sớm thường là người giữ vai trò lãnh đạo trong hệ thống xã hội, các thành viên khác đến với họ để được tư vấn hoặc thông tin về sự đổi mới. Nhà lãnh đạo đóng một vai trò trung tâm ở tất cả các giai đoạn của quá trình đổi mới, từ khi bắt đầu đến khi thực hiện, đặc biệt trong việc triển khai các nguồn lực mang lại sự thúc đẩy tiến bộ (Light, 1998). Với vai trò như vậy, thái độ của người chấp nhận sớm đối với đổi mới là rất quan trọng. Các đánh giá chủ quan của họ về sự đổi mới sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tiếp cận của các thành viên khác. Vai trò lãnh đạo của người chấp nhận sớm trong việc áp dụng đổi mới làm giảm sự không chắc chắn về sự đổi mới trong quá trình khuếch tán. Đồng thời, người nhận thức sớm sẽ có vai trò quan trọng trong việc phê duyệt một ý tưởng mới bằng cách áp dụng nó bằng quy định (Rogers, 2003).
Phần đông người chấp nhận trước là một số lượng lớn chủ thể trong hệ thống xã hội, có một tương tác tốt với các thành viên khác của xã hội. Họ thường không có vai trò lãnh đạo như những người chấp nhận sớm nhưng sự hiểu biết, chấp nhận và các tác động của họ có tác dụng khuếch tán đổi mới rất tốt. Phần đông chấp nhận trước là những người chấp nhận sự đổi mới ngay có tác động của người chấp nhận sớm, trước khi một nửa số lượng chủ thể còn lại của thị trường thông qua nó. Họ đang chấp nhận có chủ đích một sự đổi mới và họ không phải là người đầu tiên cũng
không phải là người cuối cùng chấp nhận nó. Vì vậy, quyết định đổi mới của họ thường mất nhiều thời gian hơn, cần phải có những người đổi mới và người chấp nhận sớm tồn tại trước.
Tương tự như vậy với phần đông người chấp nhận sau, họ sẽ thực hiện theo số đông khi đã tồn tại phần đồng người chấp nhận trên thị trường. Họ thường chiếm 1/3 số thành viên của hệ thống xã hội, chờ đợi cho đến khi hầu hết các đồng nghiệp của họ chấp nhận sự đổi mới. Mặc dù họ hoài nghi về sự đổi mới và kết quả của nó, nhưng sự cần thiết về kinh tế, bằng chứng về lợi ích và áp lực của người xung quanh có thể dẫn họ đến việc thông qua đổi mới (Rogers, 2003).
Người chậm trễ đổi mới theo Rogers (2003) là người có quan điểm truyền thống và họ hoài nghi về những đổi mới, họ là người thay đổi sau khi đã có sự thay đổi từ nhóm phần đông người chấp nhận sau. Họ thường là là nhóm người địa phương hoá nhất trong hệ thống xã hội, sự giao tiếp của họ khá hạn chế, thường chỉ là giữa các cá nhân với nhau. Hơn nữa, họ không có vai trò lãnh đạo và do nguồn lực hạn hẹp, sự thiếu hiểu biết về kiến thức về đổi mới nên trước tiên họ muốn đảm bảo rằng một đổi mới đã thực sự hoạt động tốt trước khi họ chấp nhận. Do đó, những người chậm trễ có xu hướng quyết định sau, xem xét đổi mới này đã được các thành viên khác của hệ thống xã hội thông qua chưa và có thành công trong quá khứ hay không. Với tất cả các đặc điểm này, thời kỳ đổi mới của những người chậm trễ là tương đối dài.
Rogers (2003) gộp năm nhóm chủ thể này thành hai nhóm chính: người chấp nhận trước (bao gồm các nhà đổi mới, người chấp nhận sớm và phần đông chấp nhận sớm) và người chấp nhận sau (những người chậm trễ và phần đông chấp nhận sau). Đối với Rogers, không có sự khác biệt đáng kể giữa các lứa tuổi giữa hai nhóm nhưng sự khác biệt tồn tại ở tình trạng kinh tế xã hội, các biến số cá nhân riêng và các hành vi truyền thông liên quan đến tính đổi mới. Những người gần nhất với lợi ích của đỏi mới thường sẽ hành động sớm và những người có hiểu biết thấp, ít quan tâm, tiềm lực tài chính hạn chế… thường là những người cuối cùng thông qua một sự đổi mới (Rogers, 2003).
PHỤ LỤC 9. HỆ THỐNG KÝ HIỆU VÀ Ý NGHĨA KÝ HIỆU XẾP HẠNG CỦA GCRA VÀ DCRA TRÊN THỊ TRƯỜNG XHTNDN VIỆT NAM
9.1. HỆ THỐNG KÝ HIỆU VÀ Ý NGHĨA KÝ HIỆU XẾP HẠNG CỦA MIS, S&P VÀ FR
Theo Naciri (2015) các GCRA có cách phân loại khác nhau các hệ thống nhưng sử dụng cách tiếp cận tương tự trong việc đánh giá nguy cơ tổn thất trong dài hạn và ngắn hạn. Các ký hiệu xếp hạng, thang đánh giá và các định nghĩa liên quan đến xếp hạng khác của các CRA sẽ được phổ biến rộng rãi ra thị trường từ các ấn phẩm được cập nhật hàng kỳ cũng như công bố trên website và trong các báo cáo xếp hạng của CRA.
Bảng 32. Hệ thống ký hiệu cơ bản XHTNDN trong dài hạn của MIS, S&P và FR
S&P | Fitch | Ý nghĩa cơ bản về khả năng và rủi ro tài chính | |
Aaa | AAA | AAA | Khả năng tài chính doanh nghiệp cực kỳ mạnh mẽ - Extremely strong |
Aa1; Aa2; Aa3 | AA+; AA; AA- | AA+; AA; AA- | Khả năng tài chính rất mạnh - Very strong |
A1; A2; A3 | A+; A; A- | A+; A; A- | Khả năng tài chính mạnh - Strong |
Baa1;Baa2;Baa3 | BBB+; BBB; BBB- | BBB+; BBB; BBB- | Doanh nghiệp có đầy đủ khả năng trả nợ- Adequate |
Ba1; Ba2; Ba3 | BB+; BB; BB- | BB+; BB; BB- | Doanh nghiệp có nguy cơ vỡ nợ nhưng rất ít - Less vulnerable |
B1; B2; B3 | B+; B; B- | B+; B; B- | Nhiều nguy cơ tổn thất khoản nợ hơn nhóm hạng trên - More vulnerable |
Caa; Ca | CCC; CC; C | CCC; C; C | Tương ứng với nguy cơ tổn thất cao hơn - Currently vulnerable, highly vulnerable, highly likely to provide non-payment |
C | D | D | Doanh nghiệp bị vỡ nợ - Failed to pay |
e, p | pr | Expected | Đánh giá dự kiến ban đầu |
WR | Thu hồi xếp hạng | ||
SD | RD | Vỡ nợ theo bộ phận, các khoản nợ khác vẫn có khả năng hoàn trả |
Có thể bạn quan tâm!
- Tác Động Của Các Nhân Tố Vĩ Mô Đến Thị Trường Xếp Hạng Tín Nhiệm Doanh Nghiệp Tại Việt Nam Và Các Quốc Gia Trong Nhóm Asean+3
- Mô Hình Kiểm Định Tác Động Đến Phát Triển Thị Trường Xếp Hạng Tín Nhiệm Doanh Nghiệp Tại Asean+3
- Kết Quả Kiểm Định Trung Bình Mức Độ Đánh Giá Của Doanh Nghiệp Về Danh Tiếng Và Dự Định Sử Dụng Dịch Vụ Xhtndn Có Trả Phí
- Phát triển thị trường xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp tại Việt Nam - 41
Xem toàn bộ 335 trang tài liệu này.
Nguồn: Naciri (2015)
Ngoài hệ thống ký hiệu xếp hạng dài hạn được phổ biến rộng rãi, hệ thống ký hiệu xếp hạng trong ngắn hạn và đánh giá triển vọng cũng được các CRA sử dụng. Xếp hạng ngắn hạn của S&P (S&P, 2018) bao gồm các xếp hạng từ A-1 đến D, cụ thể là:
A-1: DN được đánh giá cao nhất trong hạng mục ngắn hạn, DN có khả năng đáp ứng các cam kết về nghĩa vụ tài chính mạnh mẽ.
A-2: DN nhạy cảm hơn với những tác động bất lợi của sự thay đổi trong hoàn cảnh, điều kiện kinh tế hơn so với hạng trên. Tuy nhiên, khả năng để đáp ứng các cam kết về nghĩa vụ tài chính của DN là thỏa đáng.
A-3: Thể hiện DN có khả năng trả nợ đầy đủ. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế bất lợi hoặc hoàn cảnh thay đổi trong ngắn hạn có nhiều khả năng dẫn đến một khả năng suy yếu khả năng đáp ứng các cam kết về nghĩa vụ tài chính của DN
B: được coi là hạng dễ bị tổn thương, DN trong ngắn hạn có khả năng đáp ứng các cam kết tài chính, tuy nhiên, DN luôn phải đối mặt với nguy cơ lớn dẫn đến khả năng đáp ứng các cam kết tài chính không đầy đủ.
C: Hạng đánh giá này dễ bị tổn thương với việc không thanh toán vì DN phụ thuộc nhiều vào việc kinh doanh thuận lợi, tài chính, và các điều kiện kinh tế… mới đáp ứng các cam kết về nghĩa vụ tài chính của mình.
D: DN không đủ khả năng hoàn trả cam kết tài chính, hạng này sẽ được sử dụng khi thanh toán nghĩa vụ không được thực hiện vào ngày đến hạn, trừ khi tin rằng các khoản thanh toán đó sẽ được thực hiện trong thời gian tới hoặc phải gia hạn nợ, việc gia hạn này chỉ có thể trong ngắn hạn. Đánh giá 'D' cũng sẽ được sử dụng để ra quyết định khi nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp hoặc xem như cảnh báo nguy hiểm đối với khoản nợ của khách hàng.
MIS sử dụng các ký hiệu từ P-1 đến P-3 để mô tả tính chất rủi ro của các thực thể trong ngắn hạn. Trong đó:
P-1: nghĩa là tổ chức phát hành (hoặc tổ chức bảo lãnh) được xếp hạng Prime- 1 có khả năng vượt trội trong việc trả các nghĩa vụ nợ ngắn hạn.
P-2: Tổ chức phát hành (hoặc tổ chức bảo lãnh) được xếp hạng Prime-2 có khả năng mạnh mẽ để trả các nghĩa vụ nợ ngắn hạn.
P-3 Tổ chức phát hành (hoặc tổ chức hỗ trợ) được xếp hạng Prime-3 có khả năng chấp nhận để trả các nghĩa vụ ngắn hạn.
NP: Nhà phát hành (hoặc tổ chức hỗ trợ) được xếp hạng NP nghĩa là không nằm trong bất kỳ danh mục xếp hạng Prime nào của MIS.
Đối với FR thì hệ thống ký hiệu xếp hạng ngắn hạn của họ được sử dụng cho các đánh giá khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính trong thời hạn lên đến 13 tháng đối với các nghĩa vụ của công ty (FR, 2018). Các ký hiệu này bao gồm:
F1 - Chất lượng tín dụng ngắn hạn cao nhất. Xếp hạng này cho thấy năng lực nội tại mạnh nhất để thanh toán kịp thời các cam kết tài chính. FR có thể có thêm "+" để biểu thị bất kỳ tính năng tín dụng đặc biệt mạnh nào đó trong quá trình đánh giá.
F2 - Chất lượng tín dụng ngắn hạn tốt: Năng lực nội tại tốt để thanh toán kịp thời các cam kết tài chính.
F3 - Chất lượng tín dụng ngắn hạn khá: Năng lực nội tại để thanh toán kịp thời các cam kết tài chính là đủ.
B: Chất lượng tín dụng ngắn hạn trung bình: Khả năng ở mức tối thiểu để có thể thanh toán kịp thời các cam kết tài chính, đồng thời tăng cao khả năng dễ bị tổn thương trước những thay đổi bất lợi trong điều kiện tài chính và kinh tế.
C - Rủi ro vỡ nợ ngắn hạn cao: việc không thanh toán nghĩa vụ tài chính là một khả năng thực sự có thể xảy ra.
RD: Rủi ro vỡ nợ bị hạn chế: Kết quả xếp hạng này cho biết một thực thể đã không có khả năng thanh toán về một hoặc nhiều cam kết tài chính của nó, mặc dù nó vẫn có khả năng tiếp tục đáp ứng các nghĩa vụ tài chính khác.
D - Vỡ nợ: Biểu thị một sự kiện vỡ nợ trên diện rộng đối với một thực thể hoặc không có khả năng thanh toán được đối với một nghĩa vụ tài chính ngắn hạn.
9.2. HỆ THỐNG KÝ HIỆU VÀ Ý NGHĨA KÝ HIỆU XẾP HẠNG CỦA CÁC DCRA TẠI VIỆT NAM
Bảng 33. Ký hiệu và ý nghĩa mức XHTNDN được Vietnam Credit công bố năm 2009
Doanh nghiệp có khả năng cao nhất trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của mình | |
AA | Có khả năng cao trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của mình nhưng thấp hơn AAA |
A | Mức độ rủi ro trong giao dịch với các doanh nghiệp này rất thấp, tuy nhiên chịu ảnh hưởng của những thay đổi hoàn cảnh và môi trường kinh tế |
BBB | Mức độ an toàn tương đối tốt, môi trường kinh tế và các thay đổi bất lợi có thể gia tăng mức độ rủi ro lớn |
BB | Trở nên tổn thương rõ ràng khi các yếu tố như điều kiện kinh doanh, tài chính không thuận lợi |
B | Dễ bị mất khả năng trả nợ mặc dù vẫn có khả năng thực hiện các cam kết tài chính. |
CCC | Có mức độ rủi ro cao, nếu điều kiện kinh tế bất lợi thì có ít khả năng thực hiện các cam kết tài chính |
CC | Có nợ và nguy cơ không trả được nợ rất cao |
C | Thấy rõ việc phá sản tuy nhiên vẫn đang cố găng dàn xếp việc trả nợ |
D | Doanh nghiệp đã thực sự vỡ nợ |
Nguồn: Vietnamcredit (2009)