hoạt động theo cơ chế thi trường đều có KTTN, với hình thức biểu hiện qua các mô hình tổ chức doanh nghiệp, các mô hình tổ chức doanh nghiệp này sẽ tự nó ứng xử theo cơ chế thị trường và có sức sống mãnh liệt trong môi trường của cơ chế thị trường.
* Đặc điểm KTTN ở Việt Nam:
- KTTN được phục hồi, phát triển nhờ công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo.
- KTTN hình thành và phát triển trong điều kiện có Nhà nước XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua các kỳ Đại hội Đảng, KTTN ngày một khẳng định vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế và phát triển ngày càng sâu rộng. Do vậy, KTTN cần có sự quản lý vĩ mô. KTTN ra đời trong điều kiện có nhà nước XHCN, mọi hoạt động sản xuất, quá trình phát triển phải phù hợp với điều kiện đất nước, theo định hướng XHCN.
- KTTN ở nước ta ra đời và phát triển trong quan hệ sản xuất XHCN chứ không phải là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quá trình tồn tại và phát triển của KTTN nước ta hiện nay được xem nhuwg động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, là nhưng hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh theo mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội, là bộ phận cấu thành của quan hệ sản xuất định hướng XHCN.
- KTTN ở nước ta phát triển trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (2016) khẳng định: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước” [10].
1.1.4. Nội dung phát triển kinh tế tư nhân
1.1.4.1. Phát triển số lượng các cơ sở sản xuất kinh doanh
Phát triển về số lượng các doanh nghiệp là một trong những tiêu chí quan trọng để nghiên cứu đánh giá sự phát triển kinh tế tư nhân. Phát triển về số lượng
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế - 1
- Phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Phát Triển Kinh Tế Tư Nhân
- Tiêu Chí Đánh Giá Sự Phát Triển Kinh Tế Tư Nhân
- Cơ Sở Thực Tiễn Về Phát Triển Kinh Tế Tư Nhân
- Đặc Điểm Tự Nhiên, Kinh Tế - Xã Hội Ảnh Hưởng Đến Phát Triển Kttn Ở
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
doanh nghiệp không chỉ là sự tăng lên về số lượng đăng ký kinh doanh, mà là sự tăng lên về số lượng doanh nghiệp hoạt động thực chất và ổn định; mặt khác sự tăng lên về số lượng đó phải phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế xã hội.
Phát triển vế số lượng doanh nghiệp cần được xem xét đánh giá cơ cấu ngành nghề, khu vực hợp lý đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu cũng như cơ cấu về trình độ công nghệ phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ trong nước và thế giới.
Phát triển về số lượng doanh nghiệp phải được kiểm chứng thông qua cạnh tranh, uy tín thương hiệu, nói cách khác chỉ tăng thêm số lượng những doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh, hội nhập mới đánh giá đúng sự phát triển của kinh tế tư nhân.
1.1.4.2. Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh
Hình thức tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị. Thông thường, nhân tố này tác động có tính chất “bắt buộc” phải thiết kế bộ máy quản trị theo các tiêu thức nhất định.
Hình thức tổ chức của doanh nghiệp sẽ do luật pháp của từng quốc gia quy
định, nên giữa các quốc gia khác nhau thường không giống nhau.
Theo tổ chức pháp lý của doanh nghiệp hiện hành, ở nước ta hiện có các loại doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân sau:
- Công ty cổ phần.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Doanh nghiệp tư nhân.
- Công ty hợp danh.
Những đặc điểm riêng về hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp giữa các doanh nghiệp trên có ảnh hưởng đến quản trị tài chính doanh nghiệp như việc tổ chức, huy động vốn, sản xuất kinh doanh, việc phân phối lợi nhuận.
1.1.4.3. Khai thác, sử dụng các nguồn lực trong các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN
a. Năng lực về vốn
- Vốn là một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của tất cả các doanh nghiệp. Sự tăng lên về vốn của mỗi doanh nghiệp trong
khu vực kinh tế tư nhân phần nào thể hiện quy mô của kinh tế tư nhân phát triển. Tuy nhiên, để đánh giá thực chất sự phát triển này cần phải đánh giá dựa trên tính hiệu quả mà lượng vốn tăng lên này đem lại.
- Vốn đầu tư của doanh nghiệp là vốn ban đầu cũng như nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, tuỳ thuộc vào chiến lược sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn, các doanh nghiệp có thể huy động vốn dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc hoặc vay ngân hàng. Nói cách khác, khả năng vay nợ và khả năng tự tài trợ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
b. Nguồn lực vật chất
- Nguồn lực vật chất là toàn bộ cơ sở vật chất doanh nghiệp với tất cả các phương tiện vật chất được sử dụng để tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, bao gồm: Đất đai, mặt bằng kinh doanh, nhà xưởng, tài sản, trang thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu, các phương tiện vận chuyển bảo quản hàng hoá, vật tư hàng hoá.
- Nguồn lực vật chất là những điều kiện cơ bản cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển, nó quyết định năng suất lao động và hiệu quả các hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có khả năng tiếp cận tốt các nguồn lực trên sẽ có nhiều thuận lợi và cơ hội để phát triển.
Phát triển mặt bằng sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp không đơn thuần là mở rộng diện tích sản xuất kinh doanh mà còn là xây dựng các mặt bằng sản xuất kinh doanh phù hợp, thuận tiện và hiệu quả hơn. Thực tế cho thấy, mặt bằng sản xuất kinh doanh thuận lợi cũng là một lợi thế so sánh, tạo ra thế mạnh không nhỏ cho doanh nghiệp.
Lực chọn, trang bị máy móc, nguyên vật liệu phù hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng, đồng thời giảm chi phí sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các yếu tố vật chất như kho bãi, phương tiện vận chuyển vật tư, hàng hoá của doanh nghiệp cũng phần nào thể hiện sự phát triển của doanh nghiệp.
c. Nguồn nhân lực
“Nguồn nhân lực là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào
quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động” [21].
Con người là yếu tố cốt lõi trong mọi hoạt động của các loại hình doanh nghiệp, quyết định sự thành công hay không của các doanh nghiệp, các tổ chức ở mỗi quốc gia. Trong các doanh nghiệp yếu tố này cực kỳ quan trọng vì mọi quyết định liên quan đến quá trình quản trị chiến lược đều do con người quyết định, khả năng cạnh tranh trên thị trường mạnh hay yếu, văn hóa tổ chức tốt hay chưa tốt... đều xuất phát từ con người. Vì vậy, nhân lực là yếu tố đầu tiên trong các nguồn lực mà các nhà quản trị các doanh nghiệp có định hướng kinh doanh lâu dài cần xem xét, phân tích để quyết định nhiệm vụ, mục tiêu và những giải pháp cần thực hiện.
d. Năng lực về khoa học - công nghệ
Năng lực về ứng dụng khoa học công nghệ của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến việc nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hiện nay của nước ta chủ yếu là những doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, vẫn còn nhiều doanh nghiệp sử dụng các công cụ cầm tay trong hoạt động sản xuất, đồng thời, nhiều doanh nghiệp cũng đã chú trọng việc đầu tư các thiết bị, máy móc, ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Cùng với việc sử dụng máy móc, ứng dụng khoa học - công nghệ, thì tình trạng máy móc, thiết bị đã qua sử dụng còn nhiếm tỷ lệ cao và mức đầu tư cho việc đổi mới thiết bị công nghệ của doanh nghiệp vấn còn chiếm tỷ lệ thấp trong doanh thu của doanh nghiệp. Vì vậy, để tăng cường nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp, đặc biệt là trong xu thế cạnh tranh và hội nhập kinh tế toàn cầu, vấn đề về nâng cao trình độ công nghệ, ứng dụng máy móc trang thiết bị hiện đại vào sản xuất kinh doanh là cần phải đặc biệt chú trọng và quan tâm đầu tư thích đáng.
e. Đầu ra thị trường của doanh nghiệp
Đầu ra thị trường sản phẩm có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp, hiện nay, các sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra chủ yếu là phải tự mình tìm kiếm thị trường đầu ra. Tuy nhiên, vấn đề này lại rất khó khi doanh nghiệp của chúng ta là những doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu, cùng với việc phải chủ động tìm kiếm đầu ra thị trường đã đẩy doanh nghiệp vào thế khó, trong khi
phải xoay sở để có nguồn vốn hoạt động, một mặt phải chủ động liên kết, hợp tác để
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Để làm tốt vấn đề này, cần phải có vai trò của nhà nước trọng việc hỗ trợ thị trường đầu ra. Nhà nước phải cùng với doanh nghiệp, hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển thị trường, đặc biệt là thị trường tiêu thụ các sản phẩm có lợi thế, có chất lượng và năng lực cạnh tranh. Có như vậy, doanh nghiệp của chúng ta mới ngày càng phát triển và phát triển một cách bền vững, uy tín và năng lực dần được khẳng định để đủ khả năng cạnh tranh khốc liệt trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
1.1.4.4. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực KTTN
Đối với doanh nghiệp, hiệu quả sản xuất kinh doanh không những là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn, quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp.
Theo nghĩa hẹp, kết quả sản xuất của kinh tế tư nhân là đầu ra của hoạt động kinh tế của kinh tế tư nhân, nó được phản ánh bằng các chỉ tiêu sau:
- Doanh thu thuần của doanh nghiệp
- Lợi nhuận của doanh nghiệp
Theo nghĩa rộng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của KTTN còn được xét ở góc
độ phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.4.5. Đóng góp của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự phát triển của KTTN đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, đặc biệt là đóng góp vào việc duy trì và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ở Việt Nam hiện nay, khu vực KTTN chiếm tỷ trọng cao trong GDP cả nước ở mức khoảng 40-45%, đặc biệt trong giai đoạn Việt Nam chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, là thành phần có tăng trưởng sản xuất công nghiệp cao nhất, là nhân tố quan trọng giúp nền kinh tế phục hồi.. Ngoài ra, khu vực KTTN đã từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, góp phần gắn kết hài hòa hơn giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường đầy đủ ở Việt Nam.
Khu vực KTTN còn góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, đặc biệt, với sự phát triển đã dạng các loại hình sản xuất kinh doanh, các loại hình dịch vụ trên cơ cở phát huy, khác thác các tiềm năng thế mạnh của mỗi quốc gia, địa phương. Sự chuyển dịch hiện nay đang có xu hướng chuyển từ lĩnh vực nông nghiệp sang phi nông nghiệp.
- Nộp ngân sách Nhà nước
Nộp ngân sách Nhà nước gồm toàn bộ các nguồn thu đã nộp vào ngân sách
Nhà nước từ các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Thực hiện nghĩa vụ ngân sách nhà nước ngày càng tăng của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân cũng thể hiện sự phát triển của các doanh nghiệp khu vực này, ngoài ra đó còn là nghĩa vụ của khu vực này đối với nền kinh tế.
Để tăng thu ngân sách Nhà nước ngoài việc thực hiện tốt chính sách thuế của Nhà nước quy định, đồng thời giảm thời gian khai thuế làm thủ tục thuế cho các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN. Ngoài ra thực hiện chính sách thuế còn phải tạo ra sự công bằng và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động bình thường và ngày càng phát triển.
- Giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động
Giải quyết việc làm là vấn đề luôn được coi trọng trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp luôn gắn liền với việc giải quyết việc làm cho người lao động. Việc làm có vai trò quan trọng, nó chi phối toàn bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội. Cụ thể, đối với cá nhân, thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống bản thân mình. Đối với kinh tế, thì lao động là một trong những nguồn lực quan trọng, là đầu vào không thể thay thế đối với một số ngành. Đối với xã hội, thì mỗi một cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên xã hội, vì vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội. Do vậy, để đáp ứng được nhu cầu việc làm, cần quan tâm, tạo điều kiện và có chiến lược để phát triển bền vững các loại hình doanh nghiệp; có chính sách thu hút đầu tư để phát triển nhiều doanh nghiệp và tạo điều kiện để doanh nghiệp ngày càng hoạt động hiệu quả để gắn chặt hiệu quả kinh tế và giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động, góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động.
1.1.5. Xu hướng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Ở Việt Nam, phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Thời gian tới, kinh tế tư nhân sẽ vận động và phát triển theo các xu hướng sau:
1.1.5.1. Phát triển về quy mô, về số lượng, nhất là phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các doanh nghiệp của nước ta hiện nay chủ yếu có quy mô vừa, nhở và siêu nhỏ, nhất là về vốn, lao động, mặt bằng chưa thực sự tương xứng với các thành phần kinh tế khác.
Với mục tiêu đặt ra là đến năm 2020, có khoảng 1 triệu doanh nghiệp, đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp; trong đó, doanh nhiệp lớn và vừa chiếm khoảng 5-6%. Như vậy, xu hướng phát triển của doanh nghiệp chúng ta vẫn chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đó đó, cần tập trung tạo mọi điều kiện để các loại hình doanh nghiệp khu vực KTTN phát triển mạnh trong thời gian tới, nhất là việc tiếp cận các cơ chế, chính sách thông thoáng, tiếp cận nguồn vốn thuận lợi và môi trường kinh doanh thông thoáng là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh.
1.1.5.2. Xu hướng dịch chuyển doanh nghiệp theo loại hình kinh doanh
Theo Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt nam 2016/2017 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, theo loại hình doanh nghiệp (hình thức pháp lý khi đăng ký kinh doanh), số lượng các doanh nghiệp hoạt động theo hình thức các công ty TNHH và các CTCP ngày càng chiếm tỷ lệ cao. Nếu năm 2007 chỉ có 52,08% doanh nghiệp đang hoạt động dưới hình thức công ty TNHH thì đến năm 2015, loại hình doanh nghiệp này đã chiếm đa số với 65,04% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam. Tương tự, tỷ trọng của các doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức các CTCP tăng từ 15,06% năm 2007 lên 20,70% năm 2015 [13].
1.1.5.3. Xu hướng kinh tế tư nhân tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh mẽ trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, KTTN phải không ngừng cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực, hướng đến sự phát triển theo chiều sâu để từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả, nâng cao năng lực tài chính, tiếp cận cán nguồn vốn để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động. Đồng thời, tăng cường ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật; đổi mới thiết bị công nghệ để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả cạnh trang, cần có vai trò của Nhà nước trong khâu kiến tạo, tạo mọi điều kiện thuận lợi để KTTN phát triển.
1.1.5.4. Xu hướng liên kết với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
để hình thành các doanh nghiệp đa sở hữu
Đây là xu hướng của nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Xu hướng này sẽ phát triển mạnh khi khu vực doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, đổi mới, thể hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, khi thể chế và chính sách kinh tế của nhà nước được xây dựng hoàn thiện, đồng bộ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước và vai trò của các đoàn thể nhân dân được tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả.
Các loại hình doanh nghiệp đan xen, đan kết các hình thức sở hữu có thể ra
đời theo các hướng:
- Kinh tế tư nhân tham gia mua cổ phẩn của các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa hoặc thoái vốn.
- Xuất hiện các hình thức liên kết sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác và các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm lan tỏa và chuyển giao công nghệ, phát triển công nghiệp phụ trợ.
- Các hộ tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác; các hộ cá thể, tiểu chủ hoạt động theo mô hình doanh nghiệp.