Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1. Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế tư nhân
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm về kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là một loại hình kinh tế phát triển dựa trên sở hữu tư nhân về toàn bộ các yếu tố sản xuất (cả hữu hình và vô hình) được đưa vào sản xuất kinh doanh. Nó hoàn toàn tự chủ, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, cụ thể là: tự chủ về vốn, tự chủ về quản lý, tự chủ về phân phối sản phẩm, tự chủ lựa chọn hình thức tổ chức, quy mô, phương hướng sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trước pháp luật của Nhà nước [5].
Khu vực kinh tế tư nhân: Là khu vực kinh tế bao gồm những đơn vị được tổ chức dựa trên sở hữu tư nhân.
Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về kinh tế tư nhân. Ở các quốc gia phát triển thì mọi hoạt động kinh tế không thuộc khu vực kinh tế nhà nước thì đều được coi là khu vực kinh tế tư nhân.
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế - 1
- Phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế - 2
- Phát Triển Số Lượng Các Cơ Sở Sản Xuất Kinh Doanh
- Tiêu Chí Đánh Giá Sự Phát Triển Kinh Tế Tư Nhân
- Cơ Sở Thực Tiễn Về Phát Triển Kinh Tế Tư Nhân
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
Theo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân đã khẳng định rằng kinh tế tư nhân gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân “là một khu vực kinh tế, là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân và việc phát triển kinh tế tư nhân được coi là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế” [12].
Các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN là doanh nghiệp tư nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh. Các loại doanh
nghiệp này là hình thức tồn tại của thành phần kinh tế tư bản tư nhân, dựa trên sở hữu tư nhân lớn về tư liệu sản xuất.
Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân) hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế, đồng thời khẳng định “các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh... kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế [7].
Đại hội XI của Đảng còn đề ra những chủ trương, chính sách nhằm: hoàn thiện cơ chế chính sách để phát triển kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy định của pháp luật. Tạo điều kiện để các tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào kinh tế nhà nước... khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp với nhiều hình thức sở hữu hỗn hợp như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh [9].
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã xác định “Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược”; “Phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển” [9]. Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước” [9]. “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh” [9].
Văn kiện Đại hội XII của Đảng một lần nữa khẳng định: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước” [10]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) đã nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo đối với các thành phần kinh tế: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng” [10].
Như vậy, có thể hiểu KTTN là khu vực kinh tế gắn liền với sở hữu tư nhân, bao gồm doanh nghiệp của tư nhân ở trong nước: DNTN, công ty THHH (một thành viên; 2 thành viên trở lên), công ty cổ phần, công ty hợp danh và hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tiểu chủ.
1.1.1.2. Khái niệm về phát triển kinh tế tư nhân
* Khái niệm về phát triển:
Phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới. Phát triển là một thuộc tính phổ biến của vật chất. Mọi sự vật và hiện tượng của hiện thực không tồn tại trong trạng thái bất biến, mà trải qua một loạt các trạng thái từ khi xuất hiện đến lúc tiêu vong. Phạm trù phát triển thể hiện một tính chất chung của tất cả những biến đổi ấy. Nguồn gốc của phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Phương thức phát triển là chuyển hoá những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, và ngược lại theo kiểu nhảy vọt. Chiều hướng phát triển là sự vận động xoáy trôn ốc [6].
* Khái niệm về phát triển kinh tế:
Phát triển kinh tế bao hàm ý nghĩa rộng hơn tăng trưởng kinh tế, vì trong tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người chỉ là thước đo về số lượng, chưa biểu thị được chất lượng. Về khía cạnh chất lượng, PTKT có ý nghĩa rộng lớn hơn tổng sản phẩm thực tế của nền kinh tế, nó bao gồm hầu như tất cả các khía cạnh văn hoá, xã hội, chính trị. Cho nên, PTKT không phải chỉ là sự tăng trưởng, vì nó có những mục tiêu khác với sự tăng trưởng đơn giản của tổng sản phẩm quốc dân. Sự phát
triển là quá trình một xã hội đạt đến trình độ thoả mãn các nhu cầu mà xã hội ấy coi
là cơ bản. PTKT được xem xét trước hết và cơ bản ở ba khía cạnh chính:
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) hay tổng sản phẩm quốc dân (GNP) tính theo đầu người. Đây là chỉ tiêu tổng hợp, thể hiện đại thể và căn bản về trạng thái kinh tế, sự tăng trưởng và sự phát triển của một nước. Nhưng xét về mặt chất lượng, còn phải xem xét năng suất lao động chung và năng suất của các ngành, các vùng khác nhau, thu nhập của các tầng lớp dân cư và của các vùng khác nhau.
- Mức độ thoả mãn các nhu cầu xã hội được coi là cơ bản, tức là các chỉ tiêu xã hội về phát triển; chúng phản ánh chất lượng của sự phát triển xét về nội dung phương thức sinh hoạt kinh tế như tuổi thọ bình quân, số calo theo đầu người, tỉ lệ người biết chữ.
- Cơ cấu của nền kinh tế, tính chất và sự thay đổi của nó.
+ Phát triển kinh tế theo chiều rộng (PTKTTCR):
Phát triển kinh tế bằng cách tăng số lượng lao động, khai thác thêm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tăng thêm tài sản cố định và tài sản lưu động trên cơ sở kĩ thuật như trước. Trong điều kiện một nước kinh tế chậm phát triển, những tiềm năng kinh tế chưa được khai thác và sử dụng hết, nhất là nhiều người lao động chưa có việc làm thì PTKTTCR là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, nhưng đồng thời phải coi trọng phát triển kinh tế theo chiều sâu. Nó thể hiện ở chỗ mức tăng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân vừa dựa vào lực lượng lao động và tài sản cố định, vừa dựa vào cải tiến thiết bị, kĩ thuật, công nghệ và tăng năng suất lao động. Tuy nhiên, PTKTTCR có những giới hạn, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội thấp. Vì vậy, phương hướng cơ bản và lâu dài là phải chuyển sang phát triển kinh tế theo chiều sâu
+ Phát triển kinh tế theo chiều sâu (PTKTTCS):
Phát triển kinh tế chủ yếu nhờ đổi mới thiết bị, áp dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ kĩ thuật, cải tiến tổ chức sản xuất và phân công lại lao động, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn nhân tài, vật lực hiện có. Trong điều kiện hiện nay, những nhân tố phát triển theo chiều rộng đang cạn dần, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trên thế giới ngày càng phát triển mạnh với những tiến bộ mới về điện tử và tin học, công nghệ mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học đã thúc đẩy các nước coi trọng chuyển sang PTKTTCS. Kết quả PTKTTCS được biểu hiện ở
các chỉ tiêu: tăng hiệu quả kinh tế, tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, giảm hàm lượng vật tư và tăng hàm lượng chất xám, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng hiệu suất của đồng vốn, tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đầu người. ở Việt Nam và một số nước chậm phát triển, do điều kiện khách quan có tính chất đặc thù, kinh tế chậm phát triển, nên phát triển kinh tế theo chiều rộng vẫn còn có vai trò quan trọng. Nhưng để mau chóng khắc phục sự lạc hậu, đuổi kịp trình độ phát triển chung của các nước trên thế giới, trước hết là các nước trong khu vực, PTKTTCS phải được coi trọng và kết hợp chặt chẽ với phát triển theo chiều rộng trong phạm vi cần thiết và điều kiện có cho phép.
* Khái niệm về phát triển KTTN:
Là quá trình tăng lên về quy mô và có sự thay đổi về cơ cấu dẫn tới tăng lên cả về chất và lượng của khu vực kinh tế tư nhân. Tăng lên về số lượng nghĩa là ở đó có sự tăng trưởng về số lượng các doanh nghiêp, quy mô doanh nghiệp được mở rộng, lao động tăng lên, mặt bằng sản xuất kinh doanh được mở rộng, máy móc thiết bị được đầu tư. Tăng lên về chất là tăng về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, trình độ quản lý được nâng lên, trình độ sản xuất kinh doanh phát triển lên một bước mới, thị trường không ngừng được mở rộng, giá trị đóng góp cho nền kinh tế của khu vực KTTN ngày càng tăng lên. Thay đổi về cơ cấu trong lao động, cơ cấu ngành nghề kinh doanh, cơ cấu vốn [6].
1.1.2. Phân loại về kinh tế tư nhân
So với thế giới KTTN của nước ta ra đời muộn, tuy nhiên nó chứa đựng sự phong phú, đa dạng, bao gồm hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN: Doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, kinh tế tư nhân được hiểu bao gồm các loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp tư nhân (DNTN), Công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH) và Công ty cổ phần (CTCP).
1.1.2.1. Doanh nghiệp tư nhân
Theo điều 183 Luật Doanh nghiệp năm 2014, Doanh nghiệp tư nhân được định nghĩa như sau:
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp [14].
Về quản lý doanh nghiệp tại điều 185 Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định:
- Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp thì vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình nhưng phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao hợp đồng cho thuê có công chứng đến Cơ quan đăng ký kinh doanh.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác. Sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp phát sinh trong thời gian trước ngày chuyển giao doanh nghiệp, trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thỏa thuận khác [14].
1.1.2.2. Công ty trách nhiệm hữu hạn
Khác với các chủ thể kinh doanh khác, công ty trách nhiệm hữu hạn không được hình thành trên cơ sở thực tiễn kinh doanh của các thương gia, mà nó là sản phẩm của hoạt động lập pháp. Tức là, mô hình CTTNHH do các nhà làm luật xây dựng nên mà trước đó chưa có mô hình trên thực tế. Như vậy, việc hình thành CTTNHH ngược với sự ra đời của các loại công ty trước đó là có mô hình trên thực tế và pháp luật chỉ thừa nhận khi quy định vào luật.
Theo Luật Doanh nghiệp 2014, CTTNHH ở Việt Nam gồm hai loại: CTTNHH một thành viên và CTTNHH có từ hai thành viên trở lên.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên
Theo điều 47 Luật Doanh nghiệp 2014 CTTNHH có từ hai thành viên trở lên là doanh nghiệp trong đó:
- Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá 50;
- Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trongphạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 48 của Luật doanh nghiệp;
Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng cho người khác không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có tư cách pháp nhân kể
từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không được quyền phát hành cổ phần [14].
Từ quy định của luật, chúng ta có thể định nghĩa CTTNHH có từ hai thành viên trở lên như sau: CTTNHH là doanh nghiệp có hai đến không quá năm mươi thành viên góp vốn thành lập và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ trong phạm vi số vốn góp vào công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Theo điều 73 của Luật Doanh nghiệp 2014 quy định:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát hành cổ phần [14].
1.1.2.3. Công ty Cổ phần
Theo điều 110 của luật doanh nghiệp 2014 Công ty cổ phần là doanh nghiệp,
trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa;
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật doanh nghiệp 2014.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp.
Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn [14].
1.1.3. Đặc điểm kinh tế tư nhân
* KTTN có những đặc điểm chung sau đây:
- KTTN gắn liền với lợi ích cá nhân - một trong những động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Lợi ích của mỗi cá nhân là động lực mạnh mẽ để thúc đẩy xã hội phát triển; mỗi cá nhân đều có những lợi ích riêng, do vậy, KTTN có sức sống và phát triển mạnh mẽ. Đã có những thời kỳ, KTTN bị kỳ thị, hạn chế phát triển, nhưng trong nền kinh tế, KTTN vẫn phát triển một cách len lỏi và tồn tại trong đời sống kinh tế - xã hội, chứng tỏ logic tất yếu tồn tại khách quan của KTTN. Vấn đề là con người, xã hội và các lực lượng chính trị nắm hiểu và hoạt động như thế nào. Sau đổi mới, KTTN ngày một phát triển và chứng minh nó là một trong những yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước, thúc đẩy xã hội phát triển.
- KTTN là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế, là một tất yếu khách quan của phát triển kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là một mô hình, phương tiện để đạt đến một trình độ sản xuất hiện đại, kinh tế thị trường khó có thể tồn tại và phát triển nếu không có KTTN và sở hữu tư nhân. Bất kể một nền kinh tế nào