khác nhau thông qua các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách du lịch (điện, nước, nông sản, hàng hoá,…).
Tính đa thành phần:
Biểu hiện ở tính đa dạng trong thành phần khách du lịch, người phục vụ du lịch, cộng đồng địa phương, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ các tổ chức tư nhân tham gia vào hoạt động du lịch.
Tính đa mục tiêu:
Biểu hiện ở những lợi ích đa dạng và bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan, lịch sử - văn hoá, nâng cao chất lượng cuộc sống của khách du lịch và người tham gia hoạt động du lịch, mở rộng sự giao lưu văn hoá, kinh tế, nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi thành viên trong xã hội.
Tính liên vùng:
Biểu hiện thông qua các tuyến du lịch với một phần quần thể các điểm du lịch trong khu vực của một quốc gia hay giữa các quốc gia với nhau.
Tính mùa vụ:
Biểu hiện ở thời gian diễn ra hoạt động du lịch tập trung với cường độ cao trong năm. Tính mùa vụ biểu hiện rõ nhất ở loại hình du lịch nghỉ biển, thể thao theo mùa ( theo tính chất của khí hậu) hoặc loại hình du lịch cuối tuần, vui chơi giải trí (theo tính chất công việc của những người hưởng thụ sản phẩm du lịch).
Tính chi phí:
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển du lịch sinh thái tỉnh Đồng Tháp - 1
- Phát triển du lịch sinh thái tỉnh Đồng Tháp - 2
- Tài Nguyên Du Lịch Sinh Thái Thường Rất Nhạy Cảm Với Các Yếu Tố Tác Động
- Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Sinh Thái Ở Việt Nam
- Một Số Chỉ Tiêu Đặc Trưng Khí Hậu Tỉnh Đồng Tháp Năm 2010
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Biểu hiện ở chỗ mục đích đi du lịch là hưởng thụ các sản phẩm du lịch chứ không phải mục tiêu kiếm tiền.
Tính xã hội hoá:
Biểu hiện ở việc thu hút toàn bộ mọi thành phần trong xã hội tham gia (có thể hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp) vào hoạt động.
Bên cạnh các đặc trưng của ngành du lịch nói chung, DLST cũng hàm chứa những đặc trưng riêng bao gồm:
- Tính giáo dục cao về môi trường: DLST hướng con người tiếp cận gần hơn nữa tới các vùng tự nhiên và các khu bảo tồn nơi có giá trị cao về đa dạng sinh học và rất nhạy cảm về mặt môi trường. Hoạt động du lịch gây lên những tác lực lớn đối với môi trường, và DLST được coi là chiếc chìa khoá nhằm cân bằng giữa mục tiêu phát triển du lịch với việc bảo vệ môi trường.
- Góp phần bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên và duy trì tính đa dạng sinh học. Hoạt động DLST có tác dụng giáo dục con người bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, qua đó hình thành ý thức bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như thúc đẩy các hoạt động bảo tồn, đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững.
- Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương: cộng đồng địa phương chính là chủ sở hữu các nguồn tài nguyên thiên nhiên tại địa phương mình. Phát triển DLST hướng con người đến các vùng tự nhiên hoang sơ, có giá trị cao về đa dạng sinh học, điều này đặt ra một yêu cầu cấp bách là cần phải có sự tham gia của cộng đồng địa phương tại khu vực đó, bởi vì hơn ai hết, chính người dân địa phương tại đây hiểu rõ hết các nguồn tài nguyên của mình. Sự tham gia của cộng đồng địa phương có giá trị to lớn trong việc giáo dục khách bảo vệ các nguồn tài nguyên và môi trường, đồng thời cũng góp phần nâng cao hơn nữa nhận thức cho cộng đồng, tăng các nguồn thu nhập cho cộng đồng.
1.1.4. Các nguyên tắc của du lịch sinh thái
1.1.4.1.Có hoạt động giáo dục và diễn giải nhằm nâng cao sự hiểu biết về môi trường qua đó tạo ý thức tham gia vào các nỗ lực bảo tồn
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động du lịch sinh thái, tạo ra sự khác biệt giữa du lịch sinh thái với các loại hình du lịch dựa vào tự nhiên khác. Khi khách du lịch rời khỏi nơi mình tham quan sẽ có cái nhìn mới, có được sự hiểu biết cao hơn về môi trường tự nhiên, về những đặc điểm sinh thái khu vực và văn hoá bản địa. Với những hiểu biết đó, thái độ cư xử của khách du lịch sẽ thay đổi, được thay thế bằng sự tích cực hơn trong hoạt động bảo tồn và phát triển về giá trị tự nhiên, khu vực và sinh thái.
1.1.4.2. Nguyên tắc hoà nhập.
Nguyên tắc hoà nhập là nguyên tắc mà người tham gia du lịch phải có sự hoà nhập tự nguyện vào môi trường tự nhiên và môi trường văn hoá xã hội theo đúng nghĩa của nó. Có nghĩa là, khi tham gia vào hoạt động của du lịch sinh thái thì du khách phải chấp nhận sự hạn chế của nó hơn là cải tạo, biến đổi nó theo ý muốn của mình. Đồng thời cũng cần phải biết đó là những kinh nghiệm để hoà đồng, để tăng cường sự hiểu biết, sự thông cảm, có thái độ tích cực và trách nhiệm hơn là đi tìm một cảm giác mới lạ hay thoả mãn những sở thích nhất thời.
1.1.4.3. Nguyên tắc quy mô.
Là nguyên tắc mà khi tham gia du lịch sinh thái không phá huỷ môi trường và làm tổn hại cuộc sống sinh vật cũng như cư dân của môi trường đó. Do đó, khi khai thác chúng ta
cần chú ý đến những yếu tố để bảo vệ tính bền vững của môi trường đến những giá trị nhỏ nhất.
Bất cứ tại một điểm du lịch nhất định cũng đòi hỏi một sự giới hạn cụ thể về số lượng về lượng khách tham quan nhằm đảm bảo cho sự tổn hại đến môi trường, sự sống của những sinh vật tồn tại ở đó. Khi lượng khí thải cao sẽ ảnh hưởng đến khả năng tái tạo của hệ sinh thái, đồng thời khi lượng khách đông thì nó sẽ không kiểm soát được những hành vi tiêu cực dù là có ý thức hay vô ý huỷ hoại đến môi trường.
1.1.4.4. Khai thác tài nguyên và sử dụng một cách hợp lý
Bố cục và tỉ lệ giữa diện tích sử dụng và diện tích tự nhiên phải hết sức hợp lý, ngay cả kiến trúc, cấu trúc, vật liệu các trang thiết bị của các công trình xây dựng cũng phải hợp lý với cảnh quan thiên nhiên, đó là điều ý nghĩa và cần thiết cho việc bảo vệ môi trường và mỹ quan quang cảnh.
1.1.4.5. Tránh sử dụng tài nguyên một cách quá mức và làm ô nhiễm tới môi trường
Đây là nguyên tắc nhằm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, làm giảm sức ép do việc khai thác quá mức đặc biệt là các khu vực nhạy cảm như vườn quốc gia, các khu vực bảo tồn tự nhiên, hạn chế sự lan truyền ô nhiễm cục bộ trong khu vực. Tối ưu hoá việc khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lý và kéo dài thêm được vòng đời sản phẩm du lịch.
1.1.4.6. Bảo vệ môi trường và duy trì hệ sinh thái
Cũng giống như các hoạt động du lịch khác thì DLST tiềm ẩn những tác động tiêu cực đối với môi trường và tự nhiên. Vì thế, DLST luôn coi việc bảo vệ môi trường và tự nhiên. Vì thế DLST luôn coi việc bảo vệ môi trường là nguyên tắc cơ bản, quan trọng cần tuân thủ vì:
- Bảo vệ môi trường và duy trì các hệ sinh thái chính là mục tiêu của hoạt động DLST.
- Sự tồn tại của DLST gắn liền với môi trường tự nhiên và cá hệ sinh thái điển hình, sự xuống cấp của môi trường, sự suy thoái hệ sinh thái đồng nghĩa với việc đi xuống của hoạt động sinh thái. Với nguyên tắc này, mọi hoạt động của du lịch sinh thái sẽ được quản lý chặt chẽ để giảm thiểu những tác động tiêu cực đến môi trường, và một phần của hoạt động du lịch sẽ được đầu tư vào hoạt động bảo vệ môi trường và duy trì sự phát triển của hệ sinh thái.
1.1.4.7. Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá cộng đồng
Nguyên tắc này được xem là nguyên tắc quan trọng trong hoạt động du lịch sinh trái, bởi các giá trị văn hoá bản địa là một bộ phận hữu cơ không thể tác rời các giá trị môi
trường xã hội đối với hệ sinh thái ở một khu vực cụ thể. Sự xuống cấp hay thay đổi tập tục sinh hoạt, văn hoá truyền thống của cộng đồng địa phương dưới tác động nào đó sẽ làm mất đi sự cân bằng sinh thái tự nhiên vốn có của khu vực và làm thay đổi hệ sinh thái đó. Và hậu quả của quá trình này là làm thay đổi và tác động trực tiếp đến DLST. Chính vì thế mà việc phát huy bản sắc văn hoá cộng đồng địa phương có ý nghĩa quan trọng và là nguyên tắc hoạt động của DLST.
1.1.4.8. Tạo ra nhiều cơ hội việc làm và mang lại lợi ích cho kinh tế cộng đồng
Đây vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu hướng tới của việc phát triển DLST, bởi vì:
- Nếu như các hoạt động du lịch thiên nhiên khác ít quan tâm đến vấn đề này và tất cả các lợi nhuận từ hoạt động du lịch đều thuộc về công ty điều hành thì DLST ngược lại sẽ dành một phần đáng kể lợi nhuận của mình từ việc hoạt động du lịch cho việc cải thiện môi trường sống của cộng đồng địa phương.
- DLST luôn hướng tới việc huy động tối đa sự tham gia của người dân địa phương, như đảm nhận vai trò hướng dẫn viên, đáp ứng chỗ nghỉ cho khách, cung ứng các nhu cầu về thực phẩm, hàng lưu niệm cho khách,…Từ đó tạo ra nhiều công ăn việc làm và tăng thêm thu nhập cho người dân địa phương. Điều này sẽ giúp cho cuộc sống của người dân địa phương ít bị phụ thuộc hơn vào việc khai thác tự nhiên, đồng thời họ cũng cảm nhận được lợi ích từ việc tham gia bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển DLST. Chính người dân sẽ là những người chủ thực sự của các tài nguyên du lịch và họ luôn trung thành với các giá trị tự nhiên và văn hoá bản địa nơi diễn ra hoạt động DLST.
1.1.5. Các yêu cầu cơ bản của du lịch sinh thái
Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức được du lịch sinh thái là sự tồn tại của các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao. Sinh thái tự nhiên được hiểu là sự cộng sinh của các điều kiện địa lý, khí hậu và động thực vật, bao gồm: sinh thái tự nhiên (natural ecology), sinh thái động vật (animal ecology), sinh thái thực vật (plant ecology), sinh thái nông nghiệp (agri-cultural ecology), sinh thái khí hậu (ecoclimate) và sinh thái nhân văn (human ecology).
- Đa dạng sinh thái là một bộ phận và là một dạng thứ cấp của đa dạng sinh học, ngoài thứ cấp của đa dạng di truyền và đa dạng loài. Đa dạng sinh thái thể hiện ở sự khác nhau của các kiểu cộng sinh tạo nên các cơ thể sống, mối liên hệ giữa chúng với nhau và với các yếu tố vô sinh có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên sự sống như : đất, nước, địa hình, khí hậu... đó là các hệ sinh thái (eco-systems) và các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc nhiều
loài sinh vật (habitats) (Theo công ước đa dạng sinh học được thông qua tại Hộ nghị thượng đỉnh Rio de Jannero về môi trường).
Như vậy có thể nói du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên (natural - based tourism) (gọi tắt là du lịch thiên nhiên), chỉ có thể tồn tại và phát triển ở những nơi có các hệ sinh thái điển hình với tính đa dạng sinh thái cao nói riêng và tính đa dạng sinh học cao nói chung. Điều này giải thích tại sao hoạt động du lịch sinh thái thường chỉ phát triển ở các khu bảo tồn thiên nhiên, đặc biệt ở các vườn quốc gia, nơi còn tồn tại những khu rừng với tính đa dạng sinh học cao và cuộc sống hoang dã. Tuy nhiên điều này không phủ nhận sự tồn tại của một số loại hình du lịch sinh thái phát triển ở những vùng nông thôn hoặc các trang trại điển hình.
Yêu cầu thứ hai có liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái ở 2 điểm:
Để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao được sự hiểu biết cho khách du lịch sinh thái, người hướng dẫn ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt còn phải là người am hiểu các đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hoá cộng đồng địa phương. Điều này rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động du lịch sinh thái, khác với những loại hình du lịch tự nhiên khác khi du khách có thể tự mình tìm hiểu hoặc yêu cầu không cao về sự hiểu biết này ở người hướng dẫn viên.Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải cộng tác với người dân địa phương để có được những hiểu biết tốt nhất, lúc đó người hướng dẫn viên chỉ đóng vai trò là một người phiên dịch giỏi.
Hoạt động du lịch sinh thái đòi hỏi phải có được người điều hành có nguyên tắc. Các nhà điều hành du lịch truyền thống thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận và không có cam kết gì đối với việc bảo tồn hoặc quản lý các khu tự nhiên, họ chỉ đơn giản tạo cho khách du lịch một cơ hội để biết được những giá trị tự nhiên và văn hoá trước khi những cơ hội này thay đổi hoặc vĩnh viễn mất đi. Ngược lại, các nhà điều hành du lịch sinh thái phải có được sự cộng tác với các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương nhằm mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dài các giá trị tự nhiên và văn hoá khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương và du khách.
Yêu cầu thứ ba nhằm hạn chế tới mức tối đa các tác động có thể của hoạt động du lịch sinh thái đến tự nhiên và môi trường, theo đó du lịch sinh thái cần được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về “sức chứa”. Khái niệm “ sức chứa” được hiểu từ bốn khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm lý và xã hội. Tất cả những khía cạnh này có liên quan tới lượng khách đến một địa điểm vào cùng một thời điểm.
- Đứng trên góc độ vật lý, sức chứa ở đây được hiểu là số lượng tối đa khách du lịch mà khu vực có thể tiếp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu chuẩn về không gian đối với mỗi du khách cũng như nhu cầu sinh hoạt của họ.
- Đứng ở góc độ xã hội, sức chứa là giới hạn về lượng du khách mà tại đó bắt đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của các hoạt động du lịch đến đời sống văn hoá-xã hội, kinh tế-xã hội của khu vực. Cuộc sống bình thường của cộng đồng địa phương có cảm giác bị phá vỡ, xâm nhập.
- Đứng ở góc độ quản lý, sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà khu du lịch có khả năng phục vụ. Nếu lượng khách vượt quá giới hạn này thì năng lực quản lý (lực lượng nhân viên, trình độ và phương tiện quản lý...) của khu du lịch sẽ không đáp ứng được yêu cầu của khách, làm mất khả năng quản lý và kiểm soát hoạt động của khách, kết quả là sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường và xã hội.
Do khái niệm sức chứa bao gồm cả định tính và định lượng, vì vậy khó có thể xác định một con số chính xác cho mỗi khu vực. Mặt khác, mỗi khu vực khác nhau sẽ có chỉ số sức chứa khác nhau. Các chỉ số này chỉ có thể xác định một cách tương đối bằng phương pháp thực nghiệm.
Một điểm cần phải lưu ý trong quá trình xác định sức chứa là “quan niệm” về sự đông đúc của các nhà nghiên cứu có sự khác nhau, đặc biệt trong những điều kiện phát triển xã hội khác nhau (ví dụ giữa các nước châu Á và châu Âu, giữa các nước phát triển và đang phát triển ...). Rõ ràng để đáp ứng yêu cầu này, cần phải tiến hành nghiên cứu sức chứa của các địa điểm cụ thể để căn cứ vào đó mà có các quyết định về quản lý. Điều này cần được tiến hành đối với các nhóm đối tượng khách/thị trường khác nhau, phù hợp tâm lý và quan niệm của họ. Du lịch sinh thái không thể đáp ứng được các nhu cầu của tất cả cũng như mọi loại khách.
- Yêu cầu thứ tư là thoả mãn nhu cầu nâng cao kiến thức và hiểu biết của khách du lịch. Việc thoả mãn mong muốn này của khách du lịch sinh thái về những kinh nghiệm, hiểu biết mới đối với tự nhiên, văn hoá bản địa thường là rất khó khăn, song lại là yêu cầu cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của ngành du lịch sinh thái. Vì vậy, những dịch vụ để làm hài lòng du khách có vị trí quan trọng chỉ đứng sau công tác bảo tồn những gì mà họ quan tâm.
Du lịch sinh thái bền vững đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững. Điều đó không có nghĩa là luôn có sự tăng trưởng liên tục về du lịch. Đây là điểm khác biệt cần nhấn mạnh trong thời điểm mà Việt Nam bắt đầu lo lắng về tốc độ tăng trưởng của du lịch.
1.2. Khái niệm về du khách du lịch sinh thái
1.2.1. Định nghĩa khách du lịch sinh thái
Khách DLST là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc, hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.
Khác với khách du lịch thông thường, khách du lịch sinh thái là những người quan tâm hơn cả đến các giá trị tự nhiên và giá trị nhân văn ở các khu vực thiên nhiên hoang dã, thể hiện ở một số đặc điểm sau:
- Đó là những người trưởng thành có thu nhập cao, có giáo dục và quan tâm đến môi trường thiên nhiên.
- Khách DLST thích hoạt động ngoài thiên nhiên và có kinh nghiệm.
- Thường có thời gian du lịch dài hơn và mức chi tiêu cao hơn so với khách ít quan tâm đến thiên nhiên.
- Họ không đòi hỏi thức ăn hoặc nhà nghỉ cao cấp, đầy đủ tiện nghi mặc dù học có khả năng chi trả, điều này phản ánh nhận thức của họ rằng “cơ sở vật chất mà họ sử dụng ít ảnh hưởng nhất đến môi trường tự nhiên”.
1.2.2. Phân loại du khách du lịch sinh thái
1.2.2.1. Du khách du lịch sinh thái cảm giác mạnh
Thành phần đa số là thanh niên đi du lịch, cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ, tổ chức độc lập, ăn uống có tính địa phương, cơ sở lưu trú đơn giản, thích thể thao và du lịch mạo hiểm.
1.2.2.2. Du khách du lịch sinh thái an nhàn
Du khách có lứa tuổi trung niên và cao niên, đi du lịch theo nhóm, ở khách sạn hạng sang, ăn uống ở nhà hang sang trọng, ưa thích du lịch thiên nhiên và săn bắn.
1.2.2.3. Du khách du lịch sinh thái đặc biệt
Bao gồm những du khách có lứa tuổi từ trẻ đến già, đi du lịch cá nhân, đi tuor đặc biệt, thích di chuyển, thích tự nấu ăn và thu thập kiến thức khoa học.
1.3. Khái niệm về tài nguyên du lịch sinh thái
1.3.1. Định nghĩa
Tài nguyên theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng lượng và thông tin có trên Trái Đất và trong không gian vũ trụ mà con người có thể sử dụng để phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình.
Tài nguyên được phân loại thành tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn gắn liền với các nhân tố về con người và xã hội.
Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung. Khái niệm tài nguyên du lịch luôn gắn liền với khái niệm du lịch.
Tài nguyên du lịch là dạng cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch (Pháp lệnh Di lịch Việt Nam, 1995)
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử, văn hoá, công trình lao động sáng tạo văn hoá của con người và các giá trị nhân văn khác cụ thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch và đô thị du lịch (Luật Du lịch Việt Nam, 2005).
Là loại hình du lịch phát triển dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa, tài nguyên du lịch sinh thái (TNDLST) là một bộ phận quan trọng của tài nguyên du lịch bao gồm các giá trị tự nhiên thể hiện là một hệ sinh thái cụ thể và các giá trị văn hoá bản địa tồn tại và phát triển không tách rời hệ sinh thái tự nhiên đó.
Như vậy, ta có thể hiểu rằng: TNDLST là 1 bộ phận quan trong của tài nguyên du lịch nó bao gồm các khía cạnh giá trị tự nhiên thể hiện trong hệ sinh thái cụ thể và các giá trị văn hóa bản địa được tồn tại và phát triển không tách rời hệ sinh thái tự nhiên đó.
Tuy nhiên không phải mọi gía trị tự nhiên và văn hóa bản địa đều được coi là TNDLST mà chỉ có các thành phần và các thể tổng hợp tự nhiiên các giá trị văn hóa bản địa gắn với mục đích phát triển du lịch nói chung và DLST nói riêng thì nó được xem là TNDLST.
dẫn.
1.3.2. Đặc điểm tài nguyên du lịch sinh thái.
1.3.2.1. Tài nguyên du lịch sinh thái phong phú và đa dạng
TNDLST phong phú và đa dạng, trong đó có nhiều tài nguyên đặc sắc và có sức hấp
Là một bộ phận quan trọng của tài nguyên du lịch, chủ yếu được hình thành từ tự
nhiên mà bản thân tự nhiên lại rất phong phú và đa dạng vì thế TNDLST cũng có đặc điểm này.