BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VÕ THỊ KHIẾT
PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI LÂM ĐỒNG ĐẾN NĂM 2015
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển du lịch sinh thái Lâm Đồng đến năm 2015 - 2
- Kinh Nghiệm Phát Triển Dlstcủa Một Số Nước Ở Khu Vực Mỹ La Tinh Và Việt Nam Trong Thời Gian Qua:
- Những Di Tích Lịch Sử Văn Hóa, Kiến Trúc Có Giá Trị Du Lịch
Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2007
LỜI MỞ ĐẦU
Du lịch nói chung và DLST nói riêng ngày nay đã và đang phát triển nhanh chóng trong phạm vi nhiều quốc gia trên thế giới, ngày càng thu hút được sự quan tâm rộng rãi của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đặc biệt trong hai thập kỷ qua khi mà các nhà máy, các xí nghiệp ngày càng phát triển, dân số không ngừng gia tăng, đô thị hóa và tập trung dân cư, khu công nghiệp với nhiều nhà máy, khói bụi giao thông …đang là vấn nạn thì việc tìm về với tự nhiên là nhu cầu tất yếu.
DLST đang có chiều hướng phát triển và trở thành một bộ phận có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất về tỷ trọng trong ngành du lịch. Nơi nào còn giữ nhiều khu thiên nhiên, có được sự cân bằng sinh thái thì nơi đó sẽ có tiềm năng phát triển tốt về DLST và thu hút được nguồn du khách lớn, lâu dài và ổn định, từ đó, sẽ mang lại những lợi ích kinh tế to lớn góp phần làm tăng thu nhập quốc dân, tạo nhiều cơ hội về việc làm, cải thiện đời sống, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân cư ở các địa phương, nhất là ở những nơi có các khu bảo tồn thiên nhiên, các cảnh quan thiên nhiên và di tích văn hóa hấp dẫn.
Nằm ở vành đai khí hậu nhiệt đới, lãnh thổ Việt Nam trải dài trên 150 vĩ
tuyến với ¾ địa hình là đồi núi và cao nguyên, có hơn 3000km bờ biển và hàng ngàn đảo lớn nhỏ. Việt Nam được đánh giá là nơi có nhiều cảnh quan đặc sắc và các hệ sinh thái điển hình với nền văn hóa đa dạng của 54 dân tộc anh em. Tính đa dạng sinh học được đánh giá là cao so với nhiều quốc gia trên thế giới. Theo số liệu điều tra mới nhất có trên 2000 loài thực vật, trên 550 loài động vật đã được đăng ký, trong đó có nhiều loại đặc hữu quý hiếm ghi trong sách đỏ của thế giới. Đây chính là những tiềm năng tài nguyên to lớn và đặc sắc tạo nên sự thuận lợi phát triển DLST ở Việt Nam nói chung và Lâm Đồng nói riêng.
Tỉnh Lâm Đồng là một địa phương được nhiều người biết đến thông qua điều kiện khí hậu , cảnh quan môi trường cho phát triển du lịch và du lịch nghỉ dưỡng. Bên cạnh đó, Lâm Đồng còn có tiềm năng DLST rất lớn nhờ địa hình trải dài trên 3 cao nguyên Lâm Viên – Di Linh và Bảo Lộc. Trên cao nguyên này, nhiều đồi núi được hình thành từ rất sớm, đặc biệt khu vực thành phố Đà Lạt có địa hình
cao trên 1000m và có nhiều đỉnh núi cao gần 2000m so với mặt nước biển, khí hậu mát mẻ, ôn hòa quanh năm và có rất nhiều cảnh đẹp. Các đặc trưng nêu trên là tiềm năng và thế mạnh của tỉnh Lâm Đồng để phát triển du lịch nói chung và DLST nói riêng với nhiều loại hình: sinh thái vùng núi cao, sinh thái vùng chuyển tiếp miền núi và trung du, sinh thái khu rừng bảo tồn thiên nhiên Bidoup Núi Bà và vườn quốc gia Cát Tiên.
Tuy nhiên, việc đầu tư khai thác các loại hình DLST ở tỉnh Lâm Đồng vẫn còn nhiều hạn chế. Các điểm du lịch như: núi Voi, Langbian, thác Pongour, thác Đạmbri, khu du lịch rừng Madagui, khu du lịch Tuyền lâm… cũng mới chỉ dừng lại ở việc khai thác phục vụ du lịch tự nhiên, du lịch cảnh quan…các điểm du lịch này đã và đang bắt đầu bộc lộ một số tác động ảnh hưởng xấu đến môi trường cảnh quan, văn hóa. Nguyên nhân là do: quy mô đầu tư còn nhỏ, thiếu quy hoạch, chưa đồng bộ, đội ngũ những người làm công tác quản lý chưa có kinh nghiệm và chưa có đủ những cơ sở lý luận vững chắc về du lịch sinh thái, chưa tiến hành điều tra khảo sát đánh giá kỹ lưỡng và toàn diện về tài nguyên du lịch tự nhiên cũng như các điều kiện khác để phát triển du lịch sinh thái.
Vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra những giải pháp để “phát triển DLSTLâm
Đồng đến 2015” và những năm tiếp theo là rất cần thiết .
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: bao gồm những nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực phát triển DLST của Lâm Đồng như: tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn, công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực du lịch nói riêng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ nhân viên, hướng dẫn viên du lịch của Lâm Đồng.
- Phạm vi nghiên cứu: xuất phát từ tính chất và đặc điểm của sản phẩm DLST tại Lâm Đồng một lĩnh vực hoạt động còn non trẻ và mới mẻ nên đề tài này chỉ ngừng lại ở giới hạn nghiên cứu nhất định, đó là, nghiên cứu, khảo sát những tài nguyên thiên nhiên, những yếu tố môi trường tự nhiên, môi trường xã hội có tác động đến môi trường sinh thái tại Đà Lạt - LâmĐồng hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Trong quá trình thực hiện luận văn đã sử dụng các phương pháp điều tra thực địa tại các khu vực có khả năng phát triển DLST, thu thập dữ liệu thứ cấp, điều tra qua bảng câu hỏi để thăm dò ý kiến của các nhà quản lý hữu quan, khách du lịch, sinh viên... Từ đó, tiến hành phân tích số liệu qua điều tra, khảo sát để thấy được những mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội, thách thức của DLST tỉnh Lâm Đồng hiện nay nhằm đưa ra các giải pháp cụ thể mang tính khả thi trong thời gian tới.
Phát triển DLST đúng nghĩa không chỉ góp phần vào việc phát triển du lịch bền vững mà còn đóng góp tích cực vào tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Lâm Đồng.
Hy vọng kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần giúp cho các nhà quản lý du lịch tỉnh Lâm Đồng định ra được chiến lược và các giải pháp để phát triển DLST một cách có định hướng, đồng thời khai thác có hiệu quả thế mạnh vốn có của tỉnh là nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn phong phú để phát triển du lịch bền vững.
Tuy nhiên,điểm hạn chế của luận văn là:thời gian nghiên cứu chưa nhiều, phạm vi nghiên cứu chưa rộng, báo cáo đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô, của các bạn đồng môn, của các cơ quan ban ngành và của những ai quan tâm đến sự phát triển của DLST tại Lâm Đồng ./.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH SINH THÁI
1.1 Đại cương về du lịch sinh thái:
1.1.1 Khái niệm về du lịch sinh thái:
Ngày nay, xu hướng chung của toàn thế giới coi du lịch nói chung và DLST nói riêng như là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá, DLST đã và đang trên đà chuyển mình và đã trở nên phổ biến đối với những người yêu thiên nhiên, xuất phát từ các trăn trở về môi trường, kinh tế và xã hội, một trong những cách thức để trả nợ cho môi trường tự nhiên và làm tăng giá trị của các khu bảo tồn thiên nhiên còn lại.
DLST là một khái niệm tương đối mới và đã nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của nhiều người hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đối với một số người, DLST chỉ đơn giản là sự ghép nối ý nghĩa của 2 khái niệm “du lịch” và “sinh thái” vốn đã quen thuộc từ lâu. Tuy nhiên, đứng ở góc nhìn rộng hơn, tổng quát hơn thì một số người quan niệm rằng: DLST là một loại hình du lịch thiên nhiên. Với cách tiếp cận này, mọi hoạt động của du lịch có liên quan đến thiên nhiên: tắm biển, leo núi… đều được hiểu là DLST
DLST có thể được biết dưới nhiều tên gọi khác nhau:
- Du lịch thiên nhiên (Natural tourism)
- Du lịch dựa vào thiên nhiên (Natural – bassed tourism)
- Du lịch môi trường (Environimental tourism)
- Du lịch thám hiểm (Adventur tourism)
- Du lịch xanh (Green tourism)
- Du lịch bản xứ (Indigenous tourism)
- Du lịch nhà tranh (Cottage tourism)
- Du lịch bền vững (Sustainble tourism) …
DLST bắt nguồn từ du lịch thiên nhiên và du lịch ngoài trời. Có người quan niệm DLST là loại hình du lịch có lợi cho sinh thái, ít có những tác động tiêu cực đến sự tồn tại và phát triển của hệ sinh thái, nơi diễn ra các hoạt động du lịch. Cũng
có ý kiến cho rằng: DLST đồng nghĩa với du lịch đạo lý, du lịch có trách nhiệm, du lịch xanh, du lịch có lợi cho môi trường hay có tính bền vững.
1.1.2 Định nghĩa về DLST của một số tổ chức và các nước trên thế giới:
* Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN: International Union forConservation of Nature):DLST là tham quan và du lịch có trách nhiệm với môi trường tại các điểm tự nhiên không bị tàn phá để thưởng thức thiên nhiên và các đặc điểm văn hóa đã tồn tại trong quá khứ hoặc đang hiện hành, qua đó khuyến khích hoạt động bảo vệ, hạn chế những tác động tiêu cực do khách tham quan gây ra và tạo ra ích lợi cho những người địa phương tham gia tích cực (ceballos-lascurain,1996)
* Hiệp hội DLST thế giới:DLST là du lịch có trách nhiệm đối với các khu thiên nhiên, nơi môi trường được bảo tồn và lợi ích của nhân dân địa phương được đảm bảo.
* Hiệp hội du lịch Hoa kỳ:“DLST là du lịch có mục đích với các khu tự nhiên, hiểu biết về lịch sử văn hóa và lịch sử tự nhiên của môi trường, không làm biến đổi tình trạng của hệ sinh thái, đồng thời có cơ hội để phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường”
* Hiệp hội du lịch Australia: “DLST là du lịch dựa vào thiên nhiên định hướng về môi trường tự nhiên và nhân văn, được quản lý một cách bền vững và có lợi cho sinh thái”
1.1.3 Định nghĩa về DLST của ngành du lịch Việt Nam:
Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học quốc tế, Hội thảo quốc gia về “Xây dựng chiến lược phát triển DLST ở Việt Nam” từ ngày 7 đến ngày 9/9/1999 tại Hà Nội đã đưa ra định nghĩa về DLST ở Việt Nam như sau:
“DLST là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”
Lịch sử nhân loại đã chỉ ra rằng: Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, một mặt góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, mặt khác, nó cũng gây ra những “vấn đề”cho môi trường sinh thái – tài nguyên sinh vật và đa dạng sinh học đã và đang bị đe dọa đến mức báo động, các dạng tài ngyên môi trường đất, nước, không khí cũng đang trên đà suy thoái và ô nhiễm.
Cho đến nay, khái niệm DLST vẫn còn được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, với nhiều tên gọi khác nhau. Mặc dù, những tranh luận vẫn còn đang diễn tiến nhằm tìm ra một định nghĩa chung nhất về DLST, nhưng đa số ý kiến của các chuyên gia về DLST đều cho rằng: DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được nuôi dưỡng, quản lý theo hướng bền vững về mặt sinh thái. DLST dù theo định nghĩa nào chăng nữa thì vẫn phải hội đủ các yếu tố: Sự quan tâm đến thiên nhiên và môi trường; trách nhiệm với xã hội và cộng đồng của những người tham gia .
Chính vì vậy, Cứu thiên nhiên bằng cách du lịch hóa vào trong điều kiện thiên nhiên đó không còn là cách thức mới mẻ đối với các doanh nghiệp lữ hành. Tuy nhiên, DLST chú trọng vào tài nguyên và nhân công địa phương, đây là một sự thu hút hấp dẫn đối với các nước đang phát triển. DLST tạo nên những khao khát và sự thỏa mãn về thiên nhiên, kích thích lòng yêu mến thiên nhiên và từ đó mới thôi thúc được ý thức bảo tồn và phát triển nhằm ngăn ngừa các tác động tiêu cực lên tự nhiên, văn hóa và thẩm mỹ.
1.1.4 Những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái:
DLST không chỉ đơn giản là vấn đề thay tên tour tuyến hay tổ chức các tour đến các khu tự nhiên. Việc tổ chức các tour DLST thực sự không dễ dàng. Muốn có tour DLST bền vững cần có sự cân bằng giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường trong khuôn khổ các nguyên tắc và giá trị đạo đức. Theo Annalisa Koeman (cố vấn dự án du lịch bền vững) cho rằng để có tour DLST bền vững cần phải thực hiện 11 nguyên tắc cơ bản sau:
* Nguyên tắc tích cực về môi trường: Tăng cường và khuyến khích trách nhiệm đạo đức của mọi người đối với môi trường, cụ thể là giáo dục nâng cao hiểu biết cho du khách về môi trường tự nhiên, tạo ý thức tham gia của du khách vào các nổ lực bảo tồn.
* Không làm tổn hại đến tài nguyên, môi trường, không những đối với từng yếu tố mà cả sự cân bằng sinh thái của các yếu tố đó.
* Tập trung chú trọng đến sự cân bằng sinh thái của tổng thể các yếu tố của môi trường hơn đối với từng yếu tố của tài nguyên.
* Du khách chấp nhận tự nhiên theo đúng nghĩa của nó và chấp nhận sự hạn chế của nó hơn là làm nó biến đổi môi trường cho sự thuận tiện cá nhân.
* Đảm bảo lợi ích lâu dài đối với tài nguyên, đối với địa phương và đối với ngành (lợi ích về bảo tồn hoặc lợi ích về kinh tế, xã hội, văn hóa hay khoa học).
* Khi tiếp xúc với môi trường tự nhiên nhằm hòa đồng làm tăng sự hiểu biết hơn là đi tìm cảm giác mạnh hay mục đích tăng cường thể trạng.
* Đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng thông qua kinh nghiệm của cả người hướng dẫn và các thành viên tham gia.
* Cần có sự đào tạo đối với tất cả các ban ngành chức năng: địa phương, chính quyền, tổ chức đoàn thể, hãng lữ hành và khách du lịch (trước, trong và sau chuyến đi).
* Dựa vào sự tham gia của địa phương, tăng cường sự hiểu biết và sự phối hợp với các ban ngành chức năng.
* Đòi hỏi cơ quan giám sát của ngành phải đưa ra các nguyên tắc và các tiêu chuẩn được chấp nhận và giám sát toàn bộ hoạt động.
* Thiết lập một khuôn khổ quốc tế đa ngành vì DLST là một hoạt động mang tính quốc tế.
1.2 Các đặc trưng của du lịch sinh thái:
1.2.1 Các đặc trưng cơ bản:
DLSTbao gồm tất cả các đặc trưng cơ bản của mọi hoạt động du lịch nói chung là:
- Tính đa ngành: thể hiện ở đối tượng được khai thác để phục vụ du lịch như: sự hấp dẫn về cảnh quan tự nhiên, giá trị văn hóa lịch sử…Thu nhập xã hội từ DLST cũng mang lại nhiều nguồn thu cho các ngành kinh tế thông qua các sản phẩm cung cấp cho khách du lịch như: điện, nước, các sản phẩm từ nông nghiệp, bưu chính viễn thông, thủ công mỹ nghệ,…
- Tính đa thành phần: biểu hiện ở tính đa dạng trong thành phần khách du lịch, ở những người phục vụ, ở những cộng đồng cư dân địa phương tham gia vào hoạt động du lịch.
- Tính liên vùng: biểu hiện thông qua các tour, tuyến du lịch đến các khu,
điểm du lịch trong một khu vực hay một quốc gia hoặc giữa các quốc gia với nhau.