các đài địa phương khác qua hệ thống truyền hình cáp, My Tivi,… Trạm phát sóng truyền thanh đặt tại Dương Đông phát 24/24 phủ sóng khắp các đảo. Đặc biệt, trong những năm gần đây, các nhà hàng khách sạn, các ĐDL đều chú ý đáp ứng các nhu cầu về thông tin liên lạc. Những điều kiện trên đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch khi đến Phú Quốc. Tuy nhiên, các nhà quản lý cần tìm biện pháp giảm giá các dịch vụ vì còn quá cao so với đất liền.
* Hệ thống xử lý chất thải
Với chiến lược xây dựng thương hiệu du lịch trên cơ sở các yếu tố: thiên nhiên hoang sơ, không khí trong lành. Tuy nhiên, quá trình đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay buộc Phú Quốc phải đối mặt với tình trạng suy giảm nguồn TNTN, môi trường sinh thái bị đe dọa bởi thiên tai và các rác thải.
Hiện nay, môi trường Phú Quốc đang đứng trước các vấn đề: nguồn nước thải và rác thải trong sản xuất và sinh hoạt của các hộ dân và các điểm, các khu du lịch, các nhà máy chế biến với khoảng 35 – 40 tấn rác/ngày. Số rác chỉ mới được thu gom ở 2 thị trấn Dương Đông và An Thới, trên những tuyến đường lớn, điểm gần trung tâm, ngoài những khu vực đó phần còn lại thì chưa được thu gom. Tại các xã, ngoài lượng rác thu gom, người dân xử lý bằng cách đốt (vào mùa khô), chôn lấp (vào mùa mưa). Ở những khu vực gần chợ, ven kênh rạch, người dân thường vứt rác trực tiếp xuống kênh, sông, không có hệ thống thu gom và xử lý rác thải. Do đó, những khu vực này bị ô nhiểm môi trường khá nặng, không khí ô nhiểm bởi mùi hôi, ruồi muỗi, rác thải bừa bãi làm cho các dòng kênh có màu đen kèm thêm mùi hôi thối. Điều đó đã tác động không nhỏ đến sức khỏe của người dân địa phương, và gây cảm giác bất an cho du khách.
Hiện nay, Phú Quốc đã quy hoạch được một số khu đất trống xa dân cư, nằm gần rừng, biển để làm bãi rác thải. Đây là những bãi rác tự nhiên, không được thiết kế xây dựng theo tiêu chuẩn vệ sinh môi trường. Điều này dẫn đến ô nhiễm đất, nước mặt, nước ngầm dẫn đến không đạt tiêu chuẩn cơ bản về vệ sinh môi trường trong mắt du khách và nhà đầu tư. Trong tương lai, Phú Quốc sẽ có thêm 2 bãi rác là Cửa Dương và Hàm Ninh với diện tích khoảng 15 ha/khu. Các nhà quản lý hy vọng rằng,
với quy mô bãi rác tập trung sẻ giải quyết được vấn đề môi trường và Phú Quốc thực sự có môi trường trong lành trong mắt du khách.
* Các công trình thương mại, dịch vụ
Chợ Dương Đông là ngôi chợ lớn nhất ở Phú Quốc. Chợ có đầy đủ các mặt hàng, là chợ đầu mối của huyện Phú Quốc và cũng là nơi bán những món hàng đặc sản dành cho du khách. Chợ cá bên sông Dương Đông còn là một địa điểm thú vị để du khách có thể tìm hiểu rõ về cuộc sống của người dân nơi đây. Tóm lại, Phú Quốc có ít trung tâm mua sắm vì vậy hạn chế rất nhiều đến chi tiêu của khách. Kết thúc giai đoạn phát triển kinh tế 2005 – 2010, Phú Quốc đã đầu tư vào nhiều dự án về thương mại và đã cơ bản hoàn thành như khôi phục, nâng cấp lại các chợ Cầu Sấu, chợ Gành Dầu, chợ Hàm Ninh, Trung tâm thương mại Dương Đông, Trung tâm thương mại An Thới, Trung tâm thương mại Dương Tơ...
2.2.2.2. Cơ sở vật chất –kỹ thuật
Để đáp ứng ngày càng cao nhu cầu du lịch trong và ngoài nước, khai thác tốt hệ thống TNDLST, công tác xây dựng CSVCKT phục vụ du lịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi nó tạo điều kiện thuận lợi và đáp ứng nhu cầu cần thiết cho du khách.
* Cơ sở lưu trú
Trong giai đoạn 2000 - 2012, cùng với gia tăng về số lượng khách du lịch, CSVCKT phục vụ du lịch đã có những bước chuyển biến căn bản cả về số lượng và chất lượng. Năm 2012, toàn huyện có 100 CSLT, với khoảng 2.000 phòng, có khả năng tiếp khoảng 2.500 khách lưu trú mỗi ngày, trong đó có 16 khách sạn đạt tiêu
chuẩn từ 1 – 4 sao.
120
100 100
Khách
sạn
80
68 72 74 Nhà
60
40 36
60
52
40 42 42 40
nghỉ, nhà trọ
15
20 25 22
10 14
0
2248
28 30 32 Tổng số
cơ sở lưu trú
2000 2002 2004 2006 2008 2010 2012
Hình 2.1. Biểu đồ cơ sở lưu trú hoạt động Phú Quốc (Đơn vị: Cơ sở)
Nguồn: Chi cục thống kê Phú Quốc năm 2013
Hệ thống khách sạn; nhà nghỉ; nhà trọ ngày càng tăng nhanh, nhất là khi được chính phủ ban hành quyết định 178/2004/QĐ-TTG. Giai đoạn 2010-2012 tăng nhanh nhất, tăng đến 26 CSLT.
Bên cạnh đó, số phòng và số giường nghỉ cũng không ngừng tăng nhanh cả quy mô và chất lượng để phục vụ du khách. Khả năng phục vụ cũng khá đa dạng cho du khách, khách quốc tế, nội địa hạng sang đến Phú Quốc được phục vụ trong các resort 3-4 sao đáp ứng yêu cầu. Đồng thời, hạng khách thường cũng được phục vụ bởi hệ thống nhà nghỉ bình dân, đáp ứng cho mọi đối tượng du khách.
Bảng 2.3. Số phòng và số giường du lịch Phú Quốc
2005 | 2007 | 2009 | 2011 | 2012 | |
Phòng đặc biệt | 100 | 105 | 130 | 175 | 182 |
Loại I | 350 | 365 | 439 | 520 | 625 |
Loại khác | 819 | 842 | 929 | 1.120 | 1.168 |
Tổng số phòng | 1.269 | 1.312 | 1.498 | 1.815 | 1.975 |
Tổng số giường | 2.095 | 2.182 | 2.461 | 3.098 | 3.366 |
Có thể bạn quan tâm!
- Du Lịch Sinh Thái Ở Vườn Quốc Gia Galapagos (Ecuador)
- Tiềm Năng Và Hiện Trạng Phát Triển Du Lịch Sinh Thái Phú Quốc
- Những Điều Kiện Ảnh Hưởng Đến Phát Triển Dlst Phú Quốc
- Biểu Đồ Cơ Cấu Khách Quốc Tế Đến Phú Quốc (Đơn Vị: %) Nguồn: Phòng Thống Kê Huyện Phú Quốc Năm 2011
- Hiện Trạng Phát Triển Các Địa Bàn Du Lịch Sinh Thái Chủ Yếu: Hiện Tại, Trên Huyện Đảo Bước Đầu Hình Thành Và Phát Triển Một Số Cụm Dlst Gắn
- Định Hướng Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội Phú Quốc
Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.
Nguồn: Chi cục Thống kê Phú Quốc năm 2013
Tuy nhiên, do mức độ đầu tư và phát triển còn chậm, nhất là CSLT gắn với các địa bàn DLST chưa có. Phần lớn khách du lịch đến Phú quốc có thời gian lưu trú thấp (từ 1 – 2 đêm), một trong những nguyên nhân là do giá thuê các CSLT còn cao; thiếu đồng bộ và chưa hội đủ các yếu tố đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch. Các CSLT quá tải vào mùa du lịch, chưa đảm bảo phục vụ tốt cho khách. Đặc biệt vào các ngày nghỉ lễ 30/4 – 1/5 hay 24/12 (Noel) và Tết dương lịch. Nếu như trên thế giới chọn CSLT với nhiều loại như khách sạn, motel, camping, bugalow, hay làng du lịch, thì Phú Quốc phổ biến là khách sạn, resort, các nhà nghỉ, nhà trọ... với chất lượng từ cao cấp 5 sao đến loại bình dân. Trong những năm gần đây, hệ thống CSLT ở Phú Quốc phát triển với tốc độ nhanh theo hướng nâng cấp các cơ sở đã có và xây dựng các cơ sở
kinh doanh mới bằng nguồn vốn trong và ngoài nước. Hầu hết, các thành phần kinh tế đều tham gia kinh doanh dịch vụ lưu trú. Nhìn chung các phòng ở khách sạn đảm bảo tiện nghi cho việc lưu trú của khách. Sự cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường đã thúc đẩy các khách sạn tăng cường trang thiết bị, đa dạng hóa các dịch vụ, giảm giá phòng theo các tour, nâng cao trình độ nghiệp vụ và tăng cường công tác quảng cáo tiếp thị. Tuy nhiên, mật độ phân bố các khách sạn, các resort đạt chuẩn chủ yếu tập trung ở các trung tâm như thị trấn Dương Đông, thị trấn An Thới đã hạn chế rất nhiều đến việc phát triển du lịch trên quy mô toàn huyện đảo.
* Cơ sở ăn uống
Các cơ sở ăn uống ở huyện đảo khá phong phú, đa dạng về loại hình bao gồm nhà hàng, quán cà phê, quán rượu có phục vụ ăn, quán ăn nhanh...Có các cơ sở ăn uống nằm ngay trong các cơ sở lưu trú khách sạn và có các cơ sở ăn uống nằm độc lập bên ngoài cơ sở lưu trú, ở các điểm tham quan du lịch, trên bãi biển, trong các cơ sở vui chơi giải trí... nhằm phục vụ các đối tượng khách du lịch khác nhau cũng như cộng đồng dân cư.
Hiện nay, trên huyện đảo có 1.491 cơ sở ăn uống phục vụ cho du khách và người dân trên huyện đảo. Các nhà hàng nằm ngay trong các khu khách sạn, Resort 3-4 sao có thể đáp ứng phục vụ các món ăn Âu, Á cho du khách quốc tế. Ngay trên địa bàn cũng có các cơ sở ăn uống do người nước ngoài làm chủ nên món ăn phương tây cũng hết sức đa dạng đáp ứng tốt nhu cầu cho khách quốc tế.
Bên cạnh đó, các cơ sở ăn uống nằm ngoài cơ sở lưu trú phục vụ các món ăn truyền thống, đặc sản địa phương đáp ứng được nhu cầu du lịch hiện tại. Nhiều cơ sở được đánh giá cao về chất lượng phục vụ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm như: nhà hàng Trùng Dương, nhà hàng Zen, nhà hàng Sông Xanh, nhà hàng Long Beach, nhà hàng Song Lê...
Tuy nhiên, thời gian tới cần đầu tư mở rộng thêm cơ sở ăn uống, chất lượng phục vụ cho du khách vì số lượng khách ngày càng tăng, cơ sở như hiện tại sẽ không đáp ứng được cho du khách.
* Các cơ sở vui chơi giải trí, mua sắm
So với nhu cầu du lịch và số lượng khách du lịch Phú Quốc tăng nhanh như hiện nay thì các cơ sở vui chơi giải trí, mua sắm của huyện đảo cũng chưa đáp ứng được nhu cầu cho khách nhất là dịp lễ, tết. Mặc dù, các cơ sở kinh doanh, mua sắm không ngừng tăng lên các shop đồ lưu niệm, các dịch vụ mua sắm...
Tuy số lượng các cơ sở kinh doanh, dịch vụ phục vụ du lịch còn ít nhưng khẳng định được chất lượng và thương hiệu của mình. Qua khảo sát và kiểm tra của Sở văn hóa, thể thao du lịch Kiên Giang đã kết luận nhiều cơ sở kinh doanh, mua sắm của Phú Quốc đạt tiêu chuẩn phục vụ du lịch: các nhà thùng nước mắm Khải Hoàn, nước mắm Hưng Thịnh, nước mắm Hưng Thành; cơ sở sản xuất rượu sim Bảy Gáo, Sim Sơn; và một số điểm tham quan vườn tiêu, vườn sinh thái...
Các dịch vụ bar, spa, massage, karaoke… có chất lượng cũng ngày một được tăng lên để phục vụ nhu cầu cho du khách, nhất là khách quốc tế. Hệ thống các dịch vụ này phần lớn được bố trí ngay trong hệ thống các khách sạn, resort lớn của huyện đảo: Sài Gòn-Phú Quốc, Thiên Hải Sơn, Bluelagoon, Thiên Thanh, Famiana...
Hiện nay, các cơ sở vui chơi giải trí phục vụ DLST cũng chưa được chú ý đầu tư riêng. Để tạo nên sự đa dạng trong hoạt động du lịch, góp phần giữ chân du khách dài ngày hơn, bên cạnh đầu tư mở rộng các điểm DLST, cần đa dạng các loại hình DLST. Có như vậy, du khách đến với Phú Quốc mới có điểm tham quan, điểm mua sắm, điểm nghiên cứu và điểm để chơi, du khách mới có mục đích để chi tiêu, địa phương sở tại mới tạo ra nhiều việc làm, tăng thêm nguồn thu cho ngành du lịch.
2.2.3. Đánh giá chung tiềm năng du lịch sinh thái Phú Quốc
Nhìn chung, Phú Quốc có nhiều tiềm năng phát triển DLST, đặc biệt tiềm năng về HST rừng, HST biển đảo, HST San Hô, thảm cỏ biển có giá trị lớn nhất cho DLST. Ngoài ra còn các HST nông nghiệp hồ tiêu, giá trị văn hóa gắn liền với cộng đồng địa phương. Với nguồn tài nguyên đặc trưng cùng CSHT, CSVCKT đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch nói chung và DLST.
Tuy nhiên, việc khai thác các tài nguyên cho phát triển DLST ở huyện đảo còn nhiều hạn chế. Một số điểm tài nguyên hấp dẫn được đưa vào khai thác nhưng quy
mô nhỏ, tự phát, chưa chú ý đến tôn tạo, bảo vệ, khai thác hướng đến lâu dài, hiệu quả kinh tế chưa cao.
Một trong những nguyên nhân cơ bản là do sự yếu kém của cơ sở hạ tầng, thiếu CSVCKT và nguồn lao động DLST chuyên nghiệp. Tính đến thời điểm này, nhiều điểm tài nguyên DLST hấp dẫn chưa có hệ thống đường ô tô hoàn chỉnh, nhất là tuyến đường ô tô nối các bãi biển. Vì vậy, việc khai thác các điểm phục vụ còn nhiều khó khăn, chất lượng phục vụ chưa cao.
Bên cạnh đó, ý thức của người dân nói chung về bảo vệ thiên nhiên môi trường chưa cao và chưa đồng bộ. Nhiều tài nguyên còn phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm, làm tăng thêm sức ép trong vấn đề bảo vệ rừng và phát triển DLST. Các lễ hội có quy mô chưa lớn, chưa tập trung, nên việc tổ chức thành điểm, tuyến DLST gặp nhiều khó khăn.
Những điều này làm hạn chế lượng du khách đến với điểm DLST, các nhà đầu tư cũng nản lòng, hiện tại chỉ tạo ra SPDL còn nghèo nàn, chưa tương xứng với tiềm năng mà thiên nhiên ban tặng.
2.3. Hiện trạng phát triển du lịch sinh thái Phú Quốc
2.3.1. Khái quát hiện trạng phát triển du lịch Phú Quốc
Phú Quốc với tiềm năng phát triển du lịch đa dạng, phong phú. Xác định được vai trò, vị trí của ngành du lịch trong quá trình phát triển kinh tế và tiềm năng du lịch của mình, trong những năm qua ngành du lịch Phú Quốc đã có những bước phát triển đáng kể, đóng góp lớn cho kinh tế tỉnh nói chung và Phú Quốc nói riêng.
2.3.1.1. Về Khách du lịch
Khách du lịch đến Phú Quốc không ngừng tăng nhanh. Năm 2000 mới chỉ đạt con số 25.056 lượt khách, năm 2005 tăng lên 148.598 lượt khách, năm 2010 là
230.000 lược khách, năm 2012 là 318.581 lượt khách tăng 1,14 lần so với năm 2011. Trong đó khách quốc tế 95.233 lượt, tăng 1,06 lần so với năm 2011.
Bảng 2.4. Lượng khách du lịch đến Phú Quốc (Đơn vị: Lượt khách)
2000 | 2005 | 2010 | 2012 |
Số lượng | Tỉ lệ (%) | Số lượng | Tỉ lệ (%) | Số lượng | Tỉ lệ (%) | Số lượng | Tỉ lệ (%) | |
Khách quốc tế | 2.225 | 9 | 29.422 | 19.8 | 66.930 | 29.1 | 95.233 | 29.9 |
Khách nội địa | 22.801 | 91 | 119.176 | 80.2 | 163.070 | 70.9 | 223.348 | 70.1 |
Tổng lượt khách | 25.056 | 100 | 148.598 | 100 | 230.000 | 100 | 318.581 | 100 |
Khách du
Nguồn: Chi cục thống kê huyện Phú Quốc năm 2013
Lượng khách du lịch trong và ngoài nước đến Phú Quốc tăng nhanh trong thời gian qua do công tác quảng bá và đầu tư phát triển du lịch Phú Quốc được đẩy mạnh sau khi Chính phủ phê duyệt đề án xây dựng nơi đây trở thành trung tâm DLST chất lượng cao của quốc gia.
* Khách nội địa: Du khách đến Phú Quốc chủ yếu là khách nội địa (2005: 80.2%; 2010: 70.9%; 2012: 70.1%). Nguồn khách chủ yếu từ thành phố Hồ Chí Minh, ĐBSCL và các tỉnh phía Bắc. Đi với mục đích tham quan thắng cảnh sinh thái, nghỉ dưỡng chiếm tỉ lệ cao nhất (khoảng 80%), tập trung đông nhất vào mùa hè (từ tháng 4 đến tháng 9) và các kỳ nghỉ lễ, đặc biệt là trong các ngày lễ 30/4, 2/9, các ngày nghỉ cuối tuần, thời gian lưu trú còn thấp trung bình là 1,9 ngày/lượt khách. Ngoài ra, còn có khách đi dưới dạng hình thức công vụ như cán bộ, công nhân viên, doanh nhân... thường kết hợp công tác với du lịch. Loại hình du lịch này diễn ra quanh năm. Đối với loại khách đi với mục đích du lịch lễ hội –tín ngưỡng thường tập trung vào các dịp lễ hội, tết Dương lịch, tết Nguyên Đán, đối tượng chính là người lớn tuổi, người buôn bán kinh doanh.
Tỷ lệ khách du lịch đến từ khu vực ĐBSCL có xu hướng giảm từ 65.1% (2005) xuống 49.2% (2010). Trong khi đó tỷ lệ khách du lịch đến từ miền ĐNB tăng lên từ 27.5% (2005) lên 36.1% (2010) do các công ty lữ hành tại thành phố Hồ Chí Minh và Phú Quốc trong thời gian qua hoạt động có hiệu quả với các chương trình giảm giá hấp dẫn. Tỷ lệ khách du lịch từ các tỉnh phía Bắc đến Phú Quốc tăng nhanh nhờ các
chương trình quảng bá về Phú Quốc, nhất là từ khi tuyến bay thẳng Phú Quốc – Nội Bài đi vào hoạt động tạo thuận lợi trong việc đi lại của du khách.
14,7
49,2
36,1
Năm 2005 Năm 2010
Hình 2.2. Biểu đồ cơ cấu khách du lịch nội địa đến Phú Quốc (Đơn vị: %)
Nguồn: Phòng Văn hóa - Thể thao - Du lịch huyện Phú Quốc năm 2011
* Khách quốc tế: Nhìn chung, khách quốc tế đến Phú Quốc còn ít nhưng tăng nhanh trong giai đoạn 2000-2012. Hầu hết khách quốc tế đến Phú Quốc với mục đích chủ yếu là nghỉ dưỡng kết hợp tham quan danh thắng và tìm hiểu VHBĐ. Khách quốc tế đến Phú Quốc tập trung đông nhất vào khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 12, đặc biệt là trong dịp lễ Noel, Tết Dương lịch. Ngoài ra, còn có nhóm khách đến với mục đích thương mại có khả năng chi trả rất cao, đòi hỏi chất lượng phục vụ tốt, đặc biệt là coi trọng vấn đề vệ sinh và an toàn thực phẩm. Họ thường đi riêng lẻ, thời gian lưu trú không dài, đối với họ thời gian là “vàng” nên khi đến một nơi nào đó họ đều tìm hiểu nghiên cứu rất kỹ các cơ hội và khả năng hợp tác đầu tư, họ thường ở các khách sạn thương mại cao cấp.
Khách du lịch có mục đích thăm thân nhân, chủ yếu là Việt Kiều về thăm gia đình, họ hàng, quê hương. Mặc dù có thời gian lưu trú dài nhưng ít sử dụng dịch vụ lưu trú, thường sử dụng dịch vụ chất lượng trung bình, giá cả vừa phải, mức chi tiêu không cao. Nhóm du khách này gia tăng nhanh và nhiều người có nhu cầu quay trở lại du lịch lần thứ 2, thứ 3... Về số lượng, khách Việt Kiều thăm thân nhân phát triển tương đối ổn định trong tổng số khách quốc tế đến Phú Quốc. Ngoài ra, khách du lịch
7,7
8,8
62
7
5
Tây Âu-Bắc mỹ