có kỹ năng nghề ở trình độ cao cho cả miền Bắc; Xây dựng chính sách phát triển hệ thống thông tin cho Vùng.
(vii) Bộ Xây dựng cần sớm chỉnh sửa Quyết định số 04/2008/QĐ-BXD ngày 3/4/2008 của Bộ về việc ban hành Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về Quy hoạch xây dựng theo hướng làm rõ tỷ lệ đất có thể cho thuê tối đa trong diện tích tự nhiên KCN. Hạn chế việc các doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN nâng tỷ lệ diện tích đất cho thuê quá cao và giảm thiểu các diện tích công cộng: xây xanh, đường xá, hệ thống xử lý chất thải...; khuyến khích đầu tư nhà xưởng cao tầng để tiết kiệm đất sản xuất.
c. Điều kiện thực hiện:
Thứ nhất, việc xây dựng qui hoạch phải đi trước một bước so với yêu cầu thực tiễn. Để thực hiện điều này, công tác xây dựng qui hoạch một mặt cần được hoạch định cho những thời kỳ đủ dài để có những dự tính mang tính chất chiến lược. Cần thiết phải nghiên cứu kỹ những bài học kinh nghiệm của các quốc gia đi trước trong vấn đề phát triển KCN. Đồng thời cần phải tranh thủ ý kiến và sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài trong công tác xây dựng qui hoạch.
Thứ hai, việc quy hoạch phát triển các KCN cần dựa trên các căn cứ dự báo về tốc độ phát triển công nghiệp của các địa phương và của Vùng. Bên cạnh đó, chú trọng nhiều hơn đến chất lượng công tác dự báo này. Qua đó đảm bảo đưa ra những định hướng phù hợp cho phép nâng cao chất lượng của công tác qui hoạch. Đây có thể coi là căn cứ quan trọng nhất để việc xây dựng các KCN, KCX đạt hiệu quả.
Thứ ba, qui hoạch xây dựng KCN phải tính đến đầy đủ các yếu tố phát triển KTXH của địa phương có KCN, lợi ích tổng thể của Vùng và quốc gia. Qui hoạch phát triển KCN không có nghĩa là chỉ xác định số lượng bao nhiêu, qui mô như thế nào, đặt ở đâu mà cần tính đến những tác động có thể có (đặc biệt là những tác động tiêu cực) đối với khu vực có KCN về mặt môi trường và xã hội. Cần thay đổi quan niệm về KCN, không nên coi KCN là chỉ có sản xuất công nghiệp và cần phải có hàng rào riêng. Xây dựng KCN hiện nay không phải chỉ với mục tiêu thu hút vốn đầu tư bằng mọi cách mà còn phải đặt ra những yêu cầu khác như: tính hiệu quả, tính bền vững và khả năng lan tỏa cho các khu vực khác...
Thứ tư, có chính sách theo dõi, đánh giá chặt chẽ việc thực hiện qui hoạch phát triển KCN như: vị trí KCN, tỷ lệ sử dụng đất công nghiệp trong các KCN, … để từ đó có các chính sách điều chỉnh kịp thời và xử lý nghiêm minh các KCN cố tình làm trái các qui định qui hoạch KCN của nhà nước,
Thứ năm, qui hoạch KCN cần có sự điều chỉnh định kỳ để phù hợp với diễn biến thực tế. Nên đánh giá và điều chỉnh qui hoạch theo định kỳ 5 năm, phù hợp với kế hoạch phát triển KTXH của quốc gia.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Mặt Đạt Được Về Môi Trường
- Thách Thức Trong Phát Triển Bền Vững Kcn Vùng Kttđbb
- Phát Triển Bền Vững Các Kcn Phải Phù Hợp Với Xu Thế Phát Triển Chung Của Thời Đại Và Đất Nước
- Tăng Cường Liên Kết Doanh Nghiệp Và Phát Triển Công Nghiệp Hỗ Trợ
- Tạo Việc Làm Và Đảm Bảo Thu Nhập Ổn Định Cho Người Dân Có Đất Bị Thu Hồi Để Phát Triển Kcn.
- Phát Triển Các Khu Đô Thị Ở Khu Vực Có Kcn
Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.
3.2.1.2. Thúc đẩy phối hợp giữa các địa phương vùng KTTĐBB về phát triển KCN
a. Căn cứ đề xuất giải pháp:
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 159/2007/QĐ-TTg ngày 10/10/2007 về quy chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương đối với các vùng KTTĐ. Đây là cơ sở quan trọng nhằm tạo ra sự thống nhất, đồng bộ để đạt được hiệu quả cao trong phát triển KTXH, BVMT của các vùng KTTĐ, thực hiện thành công định hướng phát triển của các vùng KTTĐ được xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; chủ trương, chính sách, phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước về phát triển ba vùng KTTĐ nói chung và VKTTĐ Bắc bộ nói riêng.
Đây là một trong các giải pháp quan trọng là tiền đề để xây dựng và thực hiện qui hoạch phát triển KCN của Vùng. Qui hoạch mạng lưới KCN nhất thiết phải đảm bảo sự phân bố hợp lý giữa các địa phương và nhất là sự đấu nối về kết cấu hạ tầng, mạng lưới hoạt động dịch vụ các địa phương. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các địa phương trong Vùng nói chung và trong phát triển KCN nói riêng hiện còn khá mờ nhạt, chủ yếu mang tính hình thức, vụ việc.
Đây là chiến lược 1, 4, 5, 6, 7, 12 và 13 đã đề xuất trong ma trận SWOT
b. Nội dung giải pháp
b1. Xác định những nội dung liên kết chính:
Liên quan đến việc hợp tác PTBV KCN, tác giả đề xuất bốn nội dung liên kết quan trọng nhất hiện nay, đó là: (i) Liên kết trong qui hoạch mạng lưới KCN;
(ii) liên kết xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật; (iii) Liên kết đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và (iv) Liên kết trong BVMT.
(i) Liên kết trong qui hoạch mạng lưới KCN: Việc thúc đẩy liên kết trong qui hoạch KCN các địa phương là tiền đề cho các liên kết khác giữa các KCN trong vùng như: Liên kết trong xử lý chất thải; liên kết đào tạo, cung ứng lao động và cả các liên kết giữa các doanh nghiệp có cùng ngành nghề trong KCN các địa phương...
(ii) Liên kết xây dựng đồng bộ mạng lưới hạ tầng kỹ thuật vùng KTTĐBB:
- Để phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng kỹ thuật của toàn VKTTĐ, các tỉnh, thành phố cần liên kết xây dựng những tuyến đường bộ xuyên vùng. Các địa phương trong Vùng phối hợp xây dựng và nâng cấp, mở rộng những tuyến đường liên tỉnh nối các KCN của các tỉnh; lập kế hoạch chung trong việc xây dựng tuyến vận chuyển hành khách và hàng hóa, nâng cấp các cảng sông, cảng biển.
- Các thành phố hạt nhân trong vùng là Hà Nội, Hải Phòng cần đi đầu trong việc lập kế hoạch phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cho phát triển, làm cơ sở để các tỉnh trong mỗi vùng KTTĐ phối hợp trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm đảm bảo tính nhất quán và sự bổ trợ trong các kế hoạch xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển KCN nói riêng và phát triển KTXH của toàn Vùng nói chung.
- Các tỉnh, thành phố trong từng vùng tiến hành rà soát và chế tài việc thực hiện các quy hoạch KCN trong vùng; chú trọng xã hội hóa, huy động các thành phần kinh tế tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng. Có chính sách thỏa đáng về đất đai, thuế và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia xây dựng nhà ở cho công nhân các KCN thuê. Cải thiện môi trường sống tại đô thị và KCN lân cận, đảm bảo vệ sinh môi trường và cân bằng sinh thái.
(iii) Liên kết đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ nhu cầu lao động các KCN của Vùng.
Thực trạng hiện nay nguồn nhân lực vùng KTTĐBB chưa được chuẩn bị
tương xứng với yêu cầu các KCN. Ngành giáo dục chưa chủ động gắn kết quy hoạch phát triển toàn vùng; chưa dự báo được yêu cầu lao động của các vùng trong dài hạn. Do đó, trong thời gian tới, việc quy hoạch, điều chỉnh hệ thống mạng lưới giáo dục gắn liền với quy hoạch KTXH và qui hoạch KCN của Vùng và từng địa phương là rất cần thiết.
Thế mạnh của vùng KTTĐBB là có hệ thống các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề khá lớn, nhưng trong thời gian qua việc hợp tác giữa các nhà khoa học của trường với các địa phương thường mang tính tự phát, chủ yếu dựa trên quan hệ cá nhân, thiếu một đầu mối thật sự đóng vai trò định hướng và liên kết trong đào tạo và hoạt động khoa học - công nghệ cho cả hai phía. Các tỉnh chưa chủ động “đặt hàng” cho các trường đại học và viện nghiên cứu. Do vậy, bên cạnh việc qui hoạch, dự báo nhu cầu nguồn nhân lực, đầu tư xây dựng các trung tâm đào tạo cho cả vùng KTTĐBB, ngành giáo dục cần có kế hoạch đẩy mạnh giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật, hình thành đội ngũ doanh nhân giỏi. Đồng thời, cần nghiên cứu hình thành trung tâm khoa học và chuyển giao công nghệ tầm cỡ quốc gia trên địa bàn Vùng. Ngành cần thường xuyên phối hợp với các địa phương trong Vùng tổ chức các hội thảo, hội nghị bàn về tình hình thực tế và nhu cầu của địa phương nhằm gắn nhu cầu thực tiễn với hoạt động đào tạo và nghiên cứu.
(iv) Liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong công tác BVMT
Sự phát triển KCN các địa phương trong vùng KTTĐBB, bên cạnh mặt tích cực của sự tăng trưởng công nghiệp, thì hệ quả về môi trường đang đặt ra khá nghiêm trọng. Do đó, xác định các nội dung và dự án cần phối hợp chặt chẽ trên quy mô toàn Vùng để xử lý về môi trường, bao gồm cả vấn đề cấp và thoát nước gắn liền với các sông chính của Vùng, cụ thể như sau:
- Xây dựng, rà soát quy hoạch cấp, thoát nước trên toàn vùng, đặc biệt là các khu vực tập trung KCN. Đối với một số tỉnh sử dụng nguồn nước mặt cần tính đến việc ảnh hưởng của môi trường nước do việc xử lý chưa tốt nước thải của các KCN. Cải tạo hệ thống thoát nước, xử lý nước thải, giải quyết dứt điểm tình trạng ngập
úng tại các đô thị, đặc biệt là cac thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng.
- Nghiên cứu xây dựng các khu vực xử lý và chứa chất thải, những nhà máy xử lý chất thải cho các KCN tại các vị trí thích hợp trên địa bàn Vùng. Ngoài việc xử lý chất thải rắn, cần quan tâm đến công tác phối hợp quản lý và xử lý chất thải nguy hại từ các KCN tập trung. Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và BVMT, cần tăng cường khung thể chế và các nguồn lực cho công tác giám sát, cưỡng chế. Nâng cao nhận thức cộng đồng về quản lý rác thải nguy hại, đặc biệt là các đối tương gây ra ô nhiễm, các đơn vị xử lý rác. Phát triển hệ thống thu phí theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, khuyến khích các đơn vị kinh tế giảm tỷ lệ rác thải nguy hại. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tỉnh, thành phố trong Vùng khi xem xét các dự án đầu tư lớn vào KCN, có tác động đến môi trường của cả Vùng.
b2. Đa dạng hóa các hình thức liên kết KCN có hiệu quả:
(i) Trao đổi, cung cấp thông tin giữa các địa phương trong vùng
- Về nội dung trao đổi: các địa phương trong từng vùng, cần thường xuyên trao đổi thông tin KTXH, thông tin thị trường, thông tin về các định hướng quy hoạch phát triển KTXH của các địa phương đã được phê duyệt, những điều chỉnh, bổ sung; trao đổi kinh nghiệm về quản lý nhà nước, quản lý KCN, quản lý quy hoạch, thu hút ĐTNN để hỗ trợ lẫn nhau cạnh tranh lành mạnh, tránh trùng lặp trong quy hoạch, lãng phí trong đầu tư; thường xuyên trao đổi những giải pháp, cơ chế chính sách áp dụng của mỗi địa phương nhằm đẩy mạnh việc PTBV các KCN từng địa phương và cả vùng.
- Về hình thức trao đổi: thực hiện đa dạng hóa các hình thức trao đổi thông tin, cụ thể như: Xây dựng, vận hành nối mạng thông tin KTXH giữa các địa phương khác trong vùng để thường xuyên thông tin cho nhau những kết quả và sự thay đổi, điều chỉnh bổ sung trong phát triển KTXH của mỗi địa phương; Thường xuyên tổ chức các cuộc tiếp xúc với các doanh nghiệp trong và ngoài nước trên địa bàn tất cả các tỉnh, thành phố trong Vùng để cùng tuyên truyền, giới thiệu về môi trường đầu
tư, giải quyết các vướng mắc trong đầu tư phát triển; Hình thành trang Web của toàn Vùng: Bộ Kế hoạch & Đầu tư chủ trì hình thành trang Web chung cho toàn Vùng KTTĐ để tất cả các tỉnh, thành phố trong Vùng sử dụng; nội dung trang Web cần được cập nhật liên tục và đầy đủ những thông tin KCN các tỉnh, thành phố trong Vùng KTTĐ.
(ii) Xây dựng và đưa nội dung hợp tác KCN vào kế hoạch phát triển KTXH hàng năm của mỗi ngành, mỗi địa phương. Trong giao thông vận tải ưu tiên phối hợp đầu tư cải tạo, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống giao thông giữa các tỉnh để đảm bảo tính đồng bộ và hiệu quả của công trình đầu tư (chú ý giao thông vùng giáp ranh, kết nối các KCN và giao thông liên tỉnh).
(iii) Hình thành và mở rộng các tổ chức và hoạt động kinh tế mang tính liên kết vùng nhằm tăng quy mô, tăng khả năng cạnh tranh và chủ động tham gia hội nhập khu vực và quốc tế. Hình thành những tổ chức khảo sát và nghiên cứu thị trường chung, không chỉ đối với thị trường ngoài nước mà còn cả đối với thị trường trong nước; Hình thành các trung tâm xúc tiến đầu tư quy mô vùng và tăng cường hoạt động liên kết trong lĩnh vực này.
Tóm lại: Cần thống nhất quan điểm quản lý tổng hợp KCN toàn vùng và xây dựng cơ chế để tăng cường điều hành phối hợp, liên kết vùng và quản lý vùng, liên kết giữa vùng với các vùng khác trong cả nước và với các nước khác trong khu vực, không để bị chia cắt theo địa giới hành chính, phát huy thế mạnh, bổ sung, giảm thiểu điều kiện hạn chế của từng địa phương để cùng thúc đẩy nhau phát triển và giải quyết các vấn đề nổi lên ở quy mô vùng mà từng địa phương riêng rẽ không thể làm được.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp
Quyết định số 159/2007/QĐ-TTg ngày 10/10/2007 có thể xem là cơ sở pháp lý qui định các nội dung chủ yếu trong phối hợp hoạt động các địa phương trong VKTTĐ và chức năng, quyền hạn và mối quan hệ của các cấp trong bộ máy quản lý cấp vùng, cấp địa phương trong vùng để làm cho hoạt động điều phối mới thật sự hiệu quả và có chiều sâu. Do vậy, các tỉnh, thành phố trong Vùng KTTĐBB cần
nhanh chóng phối hợp với các Bộ, ngành trung ương triển khai thực hiện nghiêm túc theo tinh thần Quyết định này. Để việc thực hiện các giải pháp trên một cách có hiệu quả, cần thực hiện các vấn đề sau:
(i) Chính phủ cần theo dõi và chỉ đạo kịp thời những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Quyết định 159/2007/QĐ-TTg.
(ii) Các tỉnh, thành phố Vùng KTTĐBB cần phối hợp với nhau trong các khâu lập, thẩm định, quản lý và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển KCN của mỗi địa phương nhằm tránh sự chồng chéo, không phù hợp với định hướng chung của Vùng. Những lĩnh vực cần được phối hợp chặt chẽ với nhau bao gồm kết nối hệ thống giao thông; hạ tầng thông tin; hệ thống cung cấp và sử dụng nguồn nước; xử lý nước thải, chất thải rắn, chất thải nguy hại; sản xuất sản phẩm chủ yếu; phát triển nguồn nhân lực; cơ sở dạy nghề; đào tạo cao đẳng, đại học; các cơ sở nghiên cứu khoa học; các bệnh viện và hệ thống đô thị... Ngoài ra, khi xây dựng quy hoạch KCN của địa phương trong Vùng cần lấy ý kiến tham gia của Ban Chỉ đạo điều phối phát triển các vùng KTTĐ và các bộ, ngành liên quan.
Về các lĩnh vực: đền bù, giải phóng mặt bằng; xây dựng các công trình hạ tầng ngoài hàng rào KCN: Với quan điểm phát triển các khu KCN là để hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp, thời gian tới các tỉnh trong và ngoài vùng cần phối hợp chặt chẽ với nhau. Đối với các công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào phục vụ trực tiếp cho KCN như đường giao thông đến chân hàng rào KCN các tỉnh trong vùng kết hợp với các tỉnh ngoài vùng bằng các biện pháp huy động nguồn ngân sách địa phương và dùng quỹ đất để xây dựng hạ tầng, khuyến khích hình thức BOT, hoặc cho công ty phát triển hạ tầng KCN trong và ngoài địa phương bỏ vốn ra để đầu tư cho các công trình hạ tầng ngoài hàng rào, phục vụ cho đấu nối với công trình bên trong hàng rào KCN được đồng bộ và phát huy tác dụng tốt.
(iii) Nhấn mạnh vai trò của các Bộ, ngành Trung ương trong việc chủ động đề xuất nội dung phối hợp với các Bộ, ngành khác và các tỉnh, thành phố trong Vùng KTTĐBB. Đồng thời hướng dẫn các tỉnh, thành phố trong Vùng KTTĐBB rà
soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư vào các KCN, KCNC địa phương mình để tránh cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương.
(iv) Tăng cường vai trò của các tỉnh, thành phố Vùng KTTĐBB trong việc chủ động đề xuất nội dung và thực hiện phối hợp với các Bộ, ngành trung ương và các địa phương khác trong Vùng, chủ yếu là những công việc sau:
- Xây dựng quy hoạch vùng, quy hoạch phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng KTXH, các ngành, sản phẩm chủ yếu và các đề án về cơ chế, chính sách phối hợp phát triển các ngành và lĩnh vực của các Bộ, ngành trung ương.
- Nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách riêng phù hợp, không trái với các quy định hiện hành, đảm bảo sự thống nhất trong toàn Vùng. Tập trung làm rõ cơ chế, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng, sử dụng tài nguyên nước, BVMT, đào tạo và sử dụng lao động.
- Xây dựng cơ chế, chính sách phối hợp trong hợp tác, hỗ trợ cung cấp nguyên liệu, thực phẩm, hỗ trợ công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao.
- Xây dựng hệ thống dữ liệu thông tin, cập nhật và trao đổi thông tin với các Bộ, ngành trung ương và các địa phương khác trong Vùng về tình hình phát triển KCN, từ đó tạo ra các liên kết trong các lĩnh vực khác.
3.2.2. Nhóm giải pháp PTBV về kinh tế các KCN
3.2.2.1. Nâng cao tính hấp dẫn và thúc đẩy thu hút đầu tư các KCN
a. Căn cứ đề xuất giải pháp
Thứ nhất, hiện tại tỷ lệ lấp đầy các KCN vùng KTTĐBB nhìn chung còn khá thấp, trong khi đất sản xuất trong KCN chưa sử dụng đến, nhiều chỗ còn bỏ hoang cho cỏ mọc. Điều này gây lãng phí rất lớn nguồn tài nguyên đất của địa phương và cả nước.
Thứ hai, việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư và đi vào sản xuất không những tạo ra nguồn thu ngân sách từ thuế cho địa phương và quốc gia mà còn giúp tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động mất đất sản xuất, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Do vậy, giai đoạn