Pháp luật về sáp nhập công ty cổ phần ở Việt Nam - 2

5. Phương pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, người viết cũng đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp thống kê số liệu, phương pháp logic,... và đặc biệt là phương pháp so sánh. Với những phương pháp trên, chúng ta có thể đưa ra được những so sánh, nhận định để đối chiếu giữa các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, cũng làm rõ được những điểm nổi bật, tích cực hoặc hạn chế của pháp luật hiện hành về vấn đề nghiên cứu. Nhờ vậy, chúng ta có thể đánh giá được sự tiến bộ cũng như những mặt tồn tại cần được khắc phục để đưa ra được một số giải pháp thích hợp cho hoạt động sáp nhập công ty cổ phần ở Việt Nam.

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SÁP NHẬP CÔNG TY CỔ PHẦN‌

Tại chương I, người viết tập trung làm rõ các vấn đề chung về lý luận như lược sử của hoạt động sáp nhập CTCP trên thế giới và Việt Nam, khái niệm, đặc trưng pháp lý và vai trò, ý nghĩa của hoạt động này.

1.1. Khái niệm sáp nhập CTCP

Muốn tìm hiểu thế nào là sáp nhập CTCP, trước hết chúng ta cần hiểu được thế nào là hoạt động sáp nhập. Khi có được cái nhìn tổng quan về hoạt động này, chúng ta nắm được những đặc điểm chung nhất, kết hợp cùng với những tính chất riêng của CTCP thì sẽ có được một cách hiểu đúng về khái niệm sáp nhập CTCP.

Từ thời kì tư bản chủ nghĩa, tập trung tư bản được hiểu là "sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn" [23,256]. Trong đó, cạnh tranh và tín dụng chính là những đòn bẩy mạnh mẽ nhất để thúc đẩy tập trung tư bản phát triển một cách nhanh chóng. Cạnh tranh buộc các tư bản, nhất là tư bản có quy mô vừa và nhỏ phải liên kết hay sát nhập với nhau để cùng đứng vững được trên thị trường. Còn tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào tay các nhà tư bản. Như vậy, sáp nhập chính là một hình thức của tập trung tư bản.

Theo từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa tái bản năm 2010: "sáp nhập" có nghĩa là "nhập lại với nhau thành một". Theo đó, hoạt động sáp nhập được coi là sự "nhập lại" của hai hoặc nhiều tổ chức, đặc biệt là các công ty, doanh nghiệp thành một tổ chức duy nhất. Thông thường, sự kết hợp này sẽ đến từ những tổ chức có nhiều điểm tương đồng với nhau.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có quan điểm nào thống nhất về khái niệm hoạt động sáp nhập. Tuy nhiên chúng ta có để tìm thấy khái niệm này được đề cập đến trong một số điều luật cụ thể. LCT 2004 quy định sáp nhập như là một hình thức tập trung kinh tế thuộc nhóm các hành vi chống

cạnh tranh. Cụ thể, khoản 1 điều 17: "Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.". Trong khi đó, LDN 2014 quy định sáp nhập như là một hình thức tổ chức lại công ty, chi tiết tại khoản 1 điều 195: "Một hoặc một số công ty (sau đây gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.". Như vậy, hoạt động sáp nhập được hiểu nôm na là những giao dịch mà trong đó, một hoặc một số doanh nghiệp chấm dứt tư cách pháp nhân của mình để gia nhập vào một doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ tiến hành tiếp nhận toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp bị sáp nhập. Ví dụ, khi một doanh nghiệp A bị sáp nhập vào doanh nghiệp B, doanh nghiệp A sẽ không còn nữa. Thay vào đó, cổ phiếu của doanh nghiệp A sẽ được chuyển đổi sang cổ phiếu của doanh nghiệp B. Cách thức quản lý điều hành doanh nghiệp sau sáp nhập cũng khác với trường hợp mua lại doanh nghiệp vì hai doanh nghiệp sáp nhập sẽ bắt tay, kết hợp cùng nhau để cùng quản lý dù trên thực tế về mặt pháp lý có một bên bị sở hữu và một bên được sở hữu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.

So sánh với pháp luật ở một số quốc gia trên thế giới, có thể thấy cách hiểu của những nhà làm luật tại Việt Nam về vấn đề này còn khá hẹp. Theo điều 15 Luật Chống độc quyền của Nhật Bản, thuật ngữ "mua lại cổ phần" cũng được hiểu là sáp nhập. Còn theo điều 91 LCT Ca-na-đa, sáp nhập được coi là "sự thiết lập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp của một hay nhiều bên thông qua việc mua hoặc cho thuê cổ phần hoặc tài sản, liên kết hoặc kết hợp bằng cách khác, quyền kiểm soát hoặc quan tâm đáng kể đối với toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, bên cung cấp, bên mua hàng hoặc một người khác bất kỳ". Những cách hiểu trên có phần rộng

6

Pháp luật về sáp nhập công ty cổ phần ở Việt Nam - 2

hơn, bởi hoạt động sáp nhập như đã nói, không chỉ dừng lại ở việc thực hiện đơn thuần hành vi sáp nhập mà còn bao gồm một chuỗi hành vi có liên kết với nhau để thực hiện mục đích sáp nhập. Đây là cách hiểu dựa trên thực tiễn thương mại được đặt trong bối cảnh chung của thị trường quốc tế với kinh nghiệm về hoạt động M&A mà các quốc gia trên thế giới đã thực hiện qua hàng trăm năm và người viết cũng nghiêng về quan điểm này. So với cách hiểu trên, những quy định về sáp nhập trong pháp luật Việt Nam mang tính đóng hơn khi chỉ dừng lại ở việc định nghĩa theo đúng quan niệm của người Việt Nam về "sáp nhập" và mô tả hành vi đó bằng việc liệt kê một cách trực tiếp mà chưa xét đến mục đích cuối cùng của hành vi. Vô hình chung đã tạo ra một kẽ hở, dẫn tới hiện tượng có những hành vi về bản chất, mục đích là sáp nhập, tập trung kinh tế nhưng lại không thuộc sự điều chỉnh của pháp luật do không thể hiện được đầy đủ những mặt mô tả về hình thức của hành vi pháp lý. Điều này đã khiến cho một số công ty gặp khó khăn khi không nắm rõ được vấn đề trong hoạt động sáp nhập của mình.

Từ những điều trên, dễ thấy rằng cách hiểu khái niệm về sáp nhập CTCP không có nhiều điểm khác biệt so với sáp nhập doanh nghiệp nói chung. Điểm khác biệt quan trọng nhất có lẽ là tính chất vốn điều lệ ở CTCP được chia thành những phần vốn bằng nhau, dễ dàng được phát hành chứng khoán để huy động vốn cũng như chuyển nhượng phần vốn góp. Do vậy mà hoạt động sáp nhập đối với CTCP cũng sôi động hơn. Từ đặc điểm trên của CTCP, có thể thấy rõ cổ phần trở thành một công cụ để bảo vệ quyền kinh doanh của các bên trong những thương vụ sáp nhập. Bên nào sở hữu được số lượng cổ phần vượt trội hơn sẽ giành được ưu thế về quyền kinh doanh chứ không phụ thuộc vào đặc điểm về nhân thân hay các mối quan hệ. Thông thường, điều này sẽ được quyết định bởi tình hình tài chính của chủ thể đó.

Như vậy, nhờ tính chất của CTCP mà sân chơi trong hoạt động sáp nhập trở nên công bằng với tất cả các bên. Cũng dựa vào các tính chất riêng biệt của CTCP, các quy định pháp lý về sáp nhập được hình thành. Ví dụ các

quy định về công bố thông tin khi sáp nhập, bảo vệ cổ đông thiểu số... đều được thiết lập dựa trên các đặc điểm của loại hình công ty này.

1.2. Đặc trưng pháp lý của sáp nhập CTCP

Thứ nhất, hoạt động sáp nhập CTCP mang đặc trưng pháp lý đó là sự chuyển đổi về mặt chủ sở hữu, cách thức điều hành và quản trị công ty. Đây là một giao dịch mang tính chất dân sự nhưng có đối tượng là CTCP - một thực thể pháp lý chứ không phải tài sản đơn thuần. Qua đó, bên thực hiện sáp nhập muốn nắm quyền kiểm soát đối với bên bị sáp nhập. Hay nói cách khác, khách thể của quan hệ sáp nhập này chính là trái quyền.

Trong hoạt động sáp nhập CTCP có sự chuyển giao toàn bộ sản nghiệp thương mại của công ty cùng các trái quyền khác. Sản nghiệp thương mại ở đây được hiểu là toàn bộ tài sản bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp của thương nhân phục vụ cho hoạt động thương mại: trụ sở, cửa hàng, kho tàng, trang thiết bị, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá, mạng lưới tiêu thụ hàng hoá và cung ứng dịch vụ... Các trái quyền ở đây là quyền kiểm soát công ty, tất cả quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp bao gồm cả quyền và nghĩa vụ đối với bên thứ ba cũng như với chủ nợ hay người lao động...

Thứ hai, chủ thể thực hiện hoạt động sáp nhập là bên nhận sáp nhập và bên bị sáp nhập. Theo đó, bên bị sáp nhập (bên bị động) trong hoạt động sáp nhập CTCP là chính là công ty mục tiêu. Bởi đây là một pháp nhân có tư cách pháp lý độc lập, có quyền nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật. Đồng thời công ty này cũng là đối tượng của quan hệ sáp nhập.

Bên nhận sáp nhập (bên chủ động) là công ty muốn thực hiện hoạt động sáp nhập. Dưới góc độ pháp lý, tính chất chủ động này của công ty xuất phát từ sự thừa nhận của pháp luật về quyền tự do kinh doanh và quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của công ty. Sự công nhận này đem lại quyền cho công ty đối với những hoạt động phát sinh trong nội bộ cũng như những hoạt

động phát sinh bên ngoài công ty như quyền tự do liên kết kinh doanh mà sáp nhập là một trong những cách thức để thực hiện nó.

Hai chủ thể này trước hết phải đáp ứng đủ những điều kiện chung thế nào là doanh nghiệp. Bởi CTCP là một loại hình của doanh nghiệp. Theo đó, khoản 9 điều 3 LDN 2014 quy định "Doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo pháp luật Việt Nam và có trụ sở chính tại Việt Nam.". Vậy còn thế nào là CTCP? CTCP được hiểu là loại hình doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp.

Thứ ba, về hậu quả pháp lý, sáp nhập CTCP dẫn đến việc chấm dứt hoàn toàn sự tồn tại của công ty bị sáp nhập. Thay vào đó, công ty nhận sáp nhập vẫn được giữ nguyên, sẽ tiếp nhận toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp khác từ công ty bị sáp nhập. Đây là điểm khác biệt so với các hoạt động khác như mua bán, hợp nhất, chia, tách.. công ty.

Thứ tư, sáp nhập CTCP được thể hiện qua hợp đồng sáp nhập CTCP. Hợp đồng sáp nhập là sự thỏa thuận giữa bên bị sáp nhập và bên nhận sáp nhập về việc chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp khác từ công ty bị sáp nhập sang công ty nhận sáp nhập. Đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.

Thứ năm, sáp nhập CTCP phải thông qua sự thừa nhận của cơ quan có thẩm quyền thông qua các thủ tục pháp lý nhất định. Điều này xuất phát từ bản chất của công ty. Công ty được khai sinh thông qua thủ tục đăng ký kinh doanh –một thủ tục để gán cho nó một tư cách pháp lý, gán cho những người thành lập nên nó những quyền và nghĩa vụ pháp lý. Do đó, khi công ty bị sáp nhập, có sự chuyển giao các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các cổ đông sáng lập nên doanh nghiệp, vì vậy cần một sự chứng nhận của cơ quan công quyền

về việc chuyển giao này. Ở góc độ này, Nhà nước đứng ra với tư cách người công nhận thỏa thuận sáp nhập giữa các bên.

1.3. Phân loại các hình thức sáp nhập CTCP

Có nhiều cách thức để phân loại các hình thức sáp nhập CTCP dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Người viết lựa chọn một số tiêu chí nổi bật dưới đây để đưa vào phần nghiên cứu của mình:

1.3.1. Căn cứ theo mức độ liên kết của công ty thành viên

Sáp nhập thường được chia thành 3 loại: sáp nhập theo chiều ngang (Horizontal), sáp nhập theo chiều dọc (Vertical) và sáp nhập theo kiểu hỗn hợp (Conglomerate).

- Sáp nhập theo chiều ngang

Đây là hoạt động sáp nhập giữa các công ty cùng một lĩnh vực kinh doanh, có cùng loại sản phẩm và thị trường, từ đó tạo ra một hãng có sức cạnh tranh cao. Hình thức này giúp giảm thiểu đối thủ cạnh tranh, tiết kiệm chi phí do quy mô (Economies of Scale). Có thể lấy ví dụ trường hợp sáp nhập giữa JPMorgan và BankOne trong lĩnh vực tài chính, hay thương vụ sáp nhập lớn nhất trong lĩnh vực ngân hàng từ trước đến nay giữa hai ngân hàng Algemene Bank Nederland (ABN) và Amsterdamsche-Rotterdamsche Bank (AMRO).

- Sáp nhập theo chiều dọc

Khác với sáp nhập theo chiều ngang, sáp nhập theo chiều dọc là sáp nhập giữa các công ty cùng lĩnh vực kinh doanh nhưng khác nhau về phân khúc thị trường. Ví dụ như Walt Disney với ABC Television. Sự sáp nhập này đem lại cho công ty tiến hành sáp nhập lợi thế về đảm bảo và kiểm soát chất lượng nguồn hàng hoặc đầu ra sản phẩm, giảm chi phí trung gian, khống chế nguồn hàng hoặc đầu ra của đối thủ cạnh tranh.

- Sáp nhập theo kiểu hỗn hợp:

Sáp nhập giữa các công ty khác nhau hoàn toàn về lĩnh vực kinh doanh, từ đó tạo ra các tập đoàn lớn hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực như Deawoo. Hình thức này là giúp nhằm giảm cơ bản rủi ro nhờ đa dạng hóa và để khai

10

thác các hình thức kinh tế khác nhau trong các lĩnh vực tài chính, tài nguyên. Hình thức này không còn mấy phổ biến trong nhiều năm trở lại đây.

1.3.2. Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ

- Sáp nhập trong nước:

Đây là hình thức mua bán và sáp nhập diễn ra tại một quốc gia và được thực hiện giữa các doanh nghiệp trong cùng lãnh thổ một quốc gia, không có sự kết hợp giữa các tài sản xuyên biên giới.

- Sáp nhập xuyên biên giới:

Hình thức sáp nhập được thực hiện giữa các công ty thuộc hai quốc gia khác nhau. Ngoải ra, đây còn có thể coi là một trong những hình thức đầu tư trực tiếp và phổ biến trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Trong quá trình toàn cầu hóa gần đây, làn sóng toàn cầu hóa đã dần xóa bỏ biên giới kinh doanh của các công ty đa quốc gia khiến cho xu hướng sáp nhập xuyên biên giới ngày càng trở thành xu hướng tất yếu trong bối cảnh kinh tế toàn cầu.

1.4. Các phương thức sáp nhập CTCP

Phương thức thực hiện sáp nhập CTCP rất đa dạng. Việc lựa chọn phương thức nào tùy thuộc vào mục tiêu, đặc điểm quản trị cũng như ưu thế của công ty trên thị trường trong từng trường hợp cụ thể. Một số phương thức thực hiện hoạt động mua bán sáp nhập doanh nghiệp là phương thức chào thầu, phương thức thương lượng tự nguyện với ban quản trị và điều hành, phương thức lôi kéo cổ đông bất mãn, phương thức mua lại tài sản của doanh nghiệp, và phương thức thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.

Thương lượng

Thương lượng là một trong những phương thức được sử dụng phổ biến nhất và mang nhiều thiện chí khi thực hiện sáp nhập CTCP. Khi cả hai công ty đều nhận thấy lợi ích chung tiềm tàng của thương vụ sáp nhập hoặc họ dự đoán được tiềm năng phát triển hoạt động kinh doanh vượt trội sau sáp nhập, ban điều hành sẽ ngồi lại với nhau để thương thảo, tiến tới một hợp đồng sáp nhập.

11

Xem tất cả 80 trang.

Ngày đăng: 19/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí