Pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam - 12

Xuất phát từ những phân tích, đánh giá, nhận xét về pháp luật bảo vệ môi trường du lịch và tình hình thực hiện những quy định pháp luật này; để đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp, công khai, minh bạch và dễ tiếp cận của pháp luật bảo vệ môi trường du lịch, một số giải pháp hoàn thiện xin được đề xuất như sau:

3.2.1. Đối với pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung

- Bổ sung các quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức cá nhân đối với bảo vệ môi trường du lịch. Các nội dung này cần được thể hiện trong các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hoặc trong văn bản chuyên ngành của các ngành liên quan mật thiết đến du lịch bởi nó ràng buộc trách nhiệm của cả các đối tượng không hoạt động trong ngành du lịch. Nếu chỉ quy định trách nhiệm của các đối tượng này trong văn bản của ngành du lịch thì khó đảm bảo tính khả thi.

- Bổ sung quy định về các biện pháp đảm bảo thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch. Đây chính là những biện pháp đảm bảo tính hiệu quả của pháp luật bảo vệ môi trường du lịch. Cụ thể, cần bổ sung các quy định về trách nhiệm tài chính của các tổ chức, cá nhân khi sử dụng các thành phần môi trường; quy định về cơ chế đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường; quy định cụ thể về công khai, minh bạch hóa các quy định bảo vệ môi trường du lịch; quy định về xử lý các vi phạm liên quan đến bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch. Đối với quy định về xử lý vi phạm, cần được bổ sung trong cả pháp luật môi trường và pháp luật du lịch, trao cho các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường và du lịch quyền xử lý vi phạm. Đồng thời, cũng cần phải xây dựng những biện pháp chế tài phù hợp để thực hiện mục tiêu giáo dục, thuyết phục nhưng cũng đủ mạnh để răn đe, tránh tình trạng coi thường pháp luật.

- Sửa đổi, bổ sung Quy chế bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch được ban hành kèm theo Quyết định số 02/2003/QĐ-BTNMT. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên cụ thể hoá và quy định tương đối đầy đủ các yêu cầu về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch và đã góp phần tích cực trong việc tăng cường các hoạt động bảo vệ môi trường du lịch. Tuy nhiên, bên cạnh những tác dụng rõ rệt,

còn nhiều quy định của Quy chế chưa đi vào cuộc sống như quy định về lập báo cáo hiện trạng môi trường, chỉ tiêu về chất lượng môi trường đối với hoạt động tham quan, nghỉ dưỡng, thể thao mạo hiểm, sinh thái... Nội dung Quy chế chủ yếu nhắc lại những quy định đã có trong các văn bản về môi trường, chưa có quy định đặc thù cho hoạt động du lịch hoặc đã cụ thể nhưng chưa phù hợp với thực tế hoạt động các chủ thể du lịch.

- Hoàn thiện bộ tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường. Việc hoàn thiện Bộ Tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường cần dựa trên cơ sở nghiên cứu tiêu chuẩn môi trường của quốc tế và nghiên cứu điều kiện cụ thể của Việt Nam để xây dựng Bộ Tiêu chuẩn phù hợp và mang tính khả thi. Đặc biệt cần chú ý đến việc bổ sung các tiêu chẩn Việt Nam mang tính kỹ thuật có liên quan mật thiết đến hoạt động du lịch như bảo vệ rừng, hệ sinh vật, hệ sinh thái, khu vực sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, khu du lịch, điểm du lịch...

- Ban hành Thông tư Liên tịch Bộ Tài nguyên và Môi trường – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch. Việc phối hợp giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan nhà nước khác, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong các lĩnh vực cụ thể đã được xác định trong các văn bản pháp lý cao nhất quy định về bảo vệ môi trường là Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định hướng dẫn thi hành luật này. Để thiết lập một cách thức cũng như cơ sở pháp lý cho hoạt động phối hợp giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thông tư Liên tịch phải cụ thể hoá các nội dung phối hợp đã được quy định, có sự phân công cụ thể và rõ ràng trách nhiệm giữa các bên trong các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát tình hình môi trường, tuyên truyền giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường trong ngành du lịch và kết hợp để giải quyết các vấn đề môi trường phát sinh.

3.2.2. Đối với pháp luật thuộc các ngành khác có liên quan đến môi trường du lịch

Trong các văn bản thuộc các lĩnh vực khác có liên quan đến môi trường du lịch như quản lý đất đai, tài nguyên nước, quản lý di sản văn hoá, xây dựng,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

khai thác khoáng sản, dầu khí cần bổ sung quy định về trách nhiệm bảo vệ môi trường du lịch của các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân khi tiến hành hoạt động trong các lĩnh vực này. Hiện nay, đã có một số văn bản quy định về vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các văn bản này, dù ít hay nhiều đều có liên quan đến công tác bảo vệ môi trường ngành du lịch. Song đây là những văn bản quy định chung về công tác bảo vệ môi trường cho tất cả các lĩnh vực, hoặc là những văn bản quy định về công tác bảo vệ môi trường cho các lĩnh vực cụ thể có liên quan đến ngành du lịch (ví dụ như xây dựng, dầu khí, y tế…). Các văn bản này mặc dù đã đề ra những yêu cầu cần thiết để có thể bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch song không thể phản ánh hết những đặc trưng cũng như các yêu cầu cụ thể của ngành du lịch. Do vậy, chúng ta cần có văn bản cụ thể hoá các yêu cầu về bảo vệ nói chung theo những đặc trưng của hoạt động du lịch.

3.2.3. Đối với pháp luật về du lịch có liên quan đến bảo vệ môi trường

Pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam - 12

- Cụ thể hoá trách nhiệm bảo vệ môi trường của các chủ thể tham gia hoạt động du lịch. Bổ sung các quy định về trách nhiệm của các chủ thể, từ cơ quan quản lý nhà nước đến các cơ sở kinh doanh du lịch, khách du lịch, ban quản lý các khu, điểm du lịch để làm cơ sở thực hiện các yêu cầu về bảo vệ môi trường trong ngành du lịch.

- Hoàn thiện các quy định tạo nguồn đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường. Trong các quy định này, bên cạnh việc xác định nghĩa vụ nộp phí khi sử dụng các thành phần môi trường du lịch còn phải định ra được một cơ chế để các chủ thể kinh doanh dành một phần nguồn thu từ du lịch cho công tác bảo vệ, tôn tạo môi trường; định ra cơ chế chia sẻ lợi ích với cộng đồng dân cư để thu hút cộng đồng dân cư tham gia tôn tạo và bảo vệ môi trường tại các khu, điểm du lịch.

- Xây dựng chỉ tiêu, định mức về bảo vệ môi trường trong hoạt động du

lịch.

Những chỉ tiêu, định mức này sẽ cho phép cụ thể hoá các yêu cầu bảo vệ

môi trường trong ngành về điều kiện môi trường, về chất lượng môi trường phù

hợp với đặc trưng của hoạt động du lịch. Chỉ tiêu, định mức về bảo vệ môi trường ngành du lịch có thể sẽ cao hơn tiêu chuẩn Việt Nam.

- Hoàn thiện hệ thống tổ chức của cơ quan quản lý. Việc hình thành một hệ thống quản lý nhà nước về môi trường du lịch từ Trung ương đến địa phương là một trong những điều kiện cơ bản để triển khai, quản lý và giám sát các hoạt động bảo vệ môi trường trong lĩnh vực này. Do vậy, để thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch, trước mắt cần thành lập bộ phận phụ trách về môi trường trong cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cả ở Trung ương và địa phương. Bên cạnh đó, trong cơ cấu của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường cần tổ chức bộ phận phụ trách quản lý về môi trường trong lĩnh vực du lịch.

3.3. GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA CÁC CHỦ THỂ HOẠT ĐỘNG TRONG NGÀNH DU LỊCH VÀ CÁC CHỦ THỂ CÓ HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN

Các chủ thể hoạt động trong ngành du lịch bao gồm các chủ thể kinh doanh du lịch, khách du lịch, các tổ chức cá nhân lập dự án, thiết kế, thi công các công trình phục vụ du lịch. Ngoài các chủ thể trực tiếp hoạt động trong ngành du lịch, môi trường du lịch còn chịu sự tác động của các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh tại các khu, điểm du lịch hoặc cư dân làm ăn, sinh sống tại các khu, điểm du lịch. Để phát huy vai trò bảo vệ môi trường của các chủ thể này cần:

3.3.1. Đối với các cơ sở kinh doanh du lịch

Các cơ sở kinh doanh du lịch có thể bao gồm: Các khu tham quan, nghỉ dưỡng, các khách sạn, các nhà hàng, các đội xe, các công ty lữ hành v.v... Hoạt động của các cơ sở này thường có tác động trực tiếp lên tài nguyên - môi trường (gây hư hỏng, làm ô nhiễm, làm suy kiệt v.v...). Vì vậy, các hoạt động bảo vệ môi trường cần được thực hiện trực tiếp ở các cơ sở này. Việc cụ thể hoá trách nhiệm bảo vệ môi trường phải gắn với đặc thù của từng loại ngành nghề kinh doanh du lịch. Là những chủ thể trực tiếp khai thác các nguồn tài nguyên, các cơ sở kinh doanh du lịch còn có trách nhiệm thực hiện các biện pháp tôn tạo tài nguyên, cải thiện chất lượng môi trường; có trách nhiệm đóng góp tài chính cho

hoạt động bảo vệ, phục hồi lại môi trường. Đây cũng chính là giải pháp mấu chốt nhằm xử lý sự mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển, giữa khai thác và duy trì tái tạo. Ở Vũng Tàu, mô hình giao khoán chỉ tiêu cây xanh để bảo vệ rừng cho các công ty du lịch đã cho thấy hiệu quả của việc các công ty du lịch áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường trong quá trình hoạt động.

Để các cơ sở kinh doanh du lịch thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ môi trường, pháp luật cũng cần quy định trách nhiệm phối hợp giữa những cơ sở kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và các cơ sở có hoạt động liên quan khi trong quá trình bảo vệ môi trường. Cơ chế phối hợp này cần được xây dựng chặt chẽ và đồng bộ để tạo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các đối tượng, bao gồm các hoạt động cần được thực hiện

Trách nhiệm bảo vệ môi trường của cơ sở kinh doanh du lịch còn được thể hiện thông qua việc nhắc nhở và cung cấp những điều kiện cần thiết để khách du lịch khi sử dụng dịch vụ của cơ sở có thể thực hiện được các yêu cầu bảo vệ môi trường. Để giám sát tình hình môi trường, cần có quy định yêu cầu các cơ sở kinh doanh du lịch thực hiện chế độ báo cáo hàng năm về tình trạng môi trường; đối với các cơ sở kinh doanh du lịch lớn cần có nhân viên phụ trách về vấn đề môi trường trong cơ sở.

3.3.2. Đối với khách du lịch

Cụ thể hoá các nghĩa vụ bảo vệ môi trường của khách trong quá trình đi du lịch, lưu trú và sử dụng các dịch vụ du lịch khác. Các hành vi được quy định phải chú ý tới yêu cầu bảo vệ môi trường của từng loại điạ bàn tiến hành hoạt động du lịch (du lịch biển, núi, sông nước v.v.). Khách du lịch phải có trách nhiệm hợp tác với các cơ sở kinh doanh du lịch để thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường.

3.3.3. Đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan

Nhìn chung, các tổ chức, cá nhân này không phải là đối tượng quản lý của ngành du lịch. Chỉ khi họ có hoạt động trong phạm vi các khu vực do ngành du lịch quản lý thì họ mới chịu sự kiểm tra, giám sát của ngành du lịch. Do vậy, về cơ bản, trách nhiệm bảo vệ môi trường của các đối tượng này được xác định

thông qua nghĩa vụ bảo vệ môi trường nói chung. Các quy định về bảo vệ môi trường hiện nay nhìn chung đều xác định trách nhiệm bảo vệ danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử văn hoá… của tất cả các tổ chức, cá nhân khi có những hoạt động liên quan song còn chung chung, khó đảm bảo tính khả thi. Để nâng cao trách nhiệm của các chủ thể này khi hoạt động tại các khu, điểm du lịch cần bổ sung các quy định về nghĩa vụ thu gom rác thải, xử lý nước thải, khí thải của các tổ chức, cá nhân nhằm tránh gây ô nhiễm môi trường tại các khu, điểm du lịch; cụ thể hoá các quy định về việc khiếu nại, tố cáo đối với các hành vi gây ô nhiễm, suy thoái môi trường tại khu, điểm du lịch, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi này gây ra; xây dựng các tiêu chuẩn môi trường cụ thể áp dụng cho các khu, điểm du lịch và có giá trị bắt buộc đối với tất cả các tổ chức, cá nhân hoạt động tại đây. Ngoài ra, cũng cần đề ra trách nhiệm phối hợp của các cơ sở để triển khai có hiệu quả các hoạt động bảo vệ môi trường.

3.3.4. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội trong công tác bảo vệ môi trường du lịch

Ngành du lịch cần phối hợp với các tổ chức xã hội để triển khai các phong trào vận động bảo vệ môi trường cho phát triển du lịch, tuyên truyền giáo dục các chủ thể liên quan về yêu cầu và sự cần thiết phải bảo vệ môi trường cho phát triển du lịch.

3.3.5. Tạo điều kiện cho cộng đồng dân cư địa phương tham gia và được hưởng lợi từ phát triển du lịch

Sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương là yếu tố quan trọng đối vớ công tác bảo vệ môi trường du lịch. Ngành du lịch cần có biện pháp thu hút sự tham gia của cộng đồng dân cư vào làm việc trong ngành du lịch, cung cấp các dịch vụ cho khách du lịch một cách có tổ chức (tham gia vào một số khâu trong chuỗi hoạt động du lịch như đưa đón khách, hướng dẫn tham quan, sản xuất và bán hàng lưu niệm); khuyến khích cộng đồng dân cư phát triển một số ngành nghề phục vụ cho du lịch; sử dụng các nguồn lợi từ du lịch vào việc xây dựng các công trình phúc lợi địa phương v.v. Những hoạt động này sẽ có ý nghĩa giáo dục người dân về vai trò của du lịch và từ đó hình thành ý thức bảo vệ môi

trường cho phát triển du lịch. Việc phát huy vai trò của cộng đồng dân cư không chỉ thể hiện qua các biện pháp làm cho người dân không có những hành vi phá hoại môi trường mà còn thể hiện ở việc khuyến khích họ thực hiện các hành vi bảo vệ môi trường tích cực như tiến hành các dịch vụ thu gom rác thải. Tác dụng của cách làm này có thể được chứng minh qua trường hợp Khu du lịch Ao Vua (Vườn quốc gia Ba Vì). Tại đây, người dân địa phương đã được huy động tham gia và hưởng lợi trong việc thu gom rác thải và bảo vệ rừng, vì vậy, vào mùa hè, hàng ngày có hàng vạn khách đến tham quan nhưng môi trường ở đây vẫn được quản lý rất tốt.

KẾT LUẬN

Trong thời gian khoảng 15 năm trở lại đây, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đã tăng xấp xỉ 14 lần (từ 250.000 lượt năm 1990 đề 3,5 triệu lượt năm 2006), khách du lịch nội địa tăng nhanh, đạt 17 triệu lượt năm 2006. Du lịch Việt Nam đã xác lập và dần nâng cao hình ảnh và vị thế trên trường quốc tế, từng bước khẳng định vai trò, vị trí trong nền kinh tế quốc dân, tạo cơ sở để phát triển một ngành kinh tế mũi nhọn.

Trong thời gian khoảng 15 năm qua, nhận thức về các vấn đề phát triển bền vững cũng được nâng lên đáng kể. Cùng với các yếu tố kinh tế, yếu tố xã hội thì yêu tố môi trường mà cụ thể là vấn đề bảo vệ môi trường đang nhận được sự quan tâm thực sự của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.

Ngành du lịch không thể thờ ơ mãi với thách thức của phát triển bền vững và cũng là nhu cầu của đất nước. Đó là lý do giải thích tại sao vấn đề bảo vệ môi trường du lịch đang được đặt ra vô cùng cấp bách; quan hệ môi trường và du lịch được nhắc tới thường xuyên trong các diễn đàn, hội nghị, báo cáo du lịch ở trong nước và quốc tế; hơn lúc nào hết, môi trường đang được xem như là “hơi thở” của hoạt động du lịch.

Đề tài luận văn “Pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam” được đặt ra do yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp phát triển du lịch bền vững của ngành du lịch Việt Nam mà trọng tâm là xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường du lịch.

Trước hết, tác giả đã tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về môi trường, du lịch, công tác bảo vệ môi trường du lịch và pháp luật về bảo vệ môi trường du lịch trên cơ sở tiếp cận những tri thức hiện đại trên thế giới, đồng thời xem xét các điều kiện thực tế và yêu cầu phát triển du lịch Việt Nam. Luận văn đã đưa ra những khái niệm cơ bản về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch, pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch, vai trò và tiêu chí cơ bản xác định tính phù hợp của pháp luật này. Đây là cơ sở để xác lập những căn cứ khoa học, làm tiền đề cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường du lịch.

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 31/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí