Quan Tâm Đào Tạo Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực

Ba là, công tác kiểm tra, thanh tra ở đây cũng được chú ý đúng mức, xác định rõ động cơ, mục đích kiểm tra thanh tra là: phát hiện mặt tốt, mặt tích cực để động viên và khích lệ doanh nghiệp, đồng thời cùng doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, khắc phục những khuyết điểm, nhắc nhở các doanh nghiệp thực hiện đúng pháp luật, hạn chế tình trạng hình sự hóa các quan hệ dân sự.

Qua công tác kiểm tra thanh tra có tác dụng nhắc nhở các doanh nghiệp, ngăn chặn và hạn chế vi phạm pháp luật, mặt khác giúp cho chính quyền thấy rõ những vấn đề đặt ra về chính sách của địa phương, cũng như việc thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của trung ương để có sự sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh kịp thời những chủ trương chưa phù hợp, hoặc đề nghị cấp trên sửa đổi bổ sung những việc vượt quá thẩm quyền.

1.1.4 Quan tâm đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Có các giải pháp đồng bộ nhằm đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt cần đẩy mạnh công tác đào tạo nghề và nâng cao chất lượng đào tạo lao động, trước hết cung cấp cho các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu du lịch, đáp ứng nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp, các lĩnh vực kinh tế nhằm giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ, chuyển dịch cơ cấu lao động, khắc phục tình trạng gia tăng cơ học về dân số dẫn đến những thánh thức về môi trường, xã hội.

1.2. Những khuyết điểm còn tồn đọng trong thu hút FDI của hai tỉnh Vĩnh Phúc và Bình Dương

1.2.1. Những khuyết điểm trong thu hút FDI của hai tỉnh Vĩnh Phúc và Bình Dương

Kết quả thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc và Bình Dương đã đạt được nhiều kết quả trong thời gian qua. Tuy nhiên, thu hút đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc và Bình Dương còn hạn chế, yếu kém, đó là:

Thứ nhất, Thu hút đầu tư trong thời gian qua còn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Tỉnh, chưa đáp ứng được các điều kiện cơ bản, cần thiết để thực hiện mục tiêu.

Thứ hai, Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, chất lượng cao còn yếu kém chưa thật sự thu hút mạnh các nhà đầu tư vào tỉnh. Định hướng phát triển các ngành mũi nhọn có tính cạnh tranh cao như: Ngành cơ khí chế tạo, điện tử tin học, công nghiệp dệt may, chế biến thực phẩm, đồ uống quan tâm ưu tiên thu hút các dự án công nghệ cao còn chung chung, chưa rõ ràng.

Thứ ba là, Công tác đền bù giải phóng mặt bằng rất khó khăn. Đặc biệt là đền bù giải phóng mặt bằng cho các khu, cụm công nghiệp. Xây dựng hạ tầng khu tái định cư, đất dịch vụ và giải quyết lao động việc làm cho nhân dân ở khu vực bị thu hồi đất làm công nghiệp - dịch vụ và đô thị còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc, dẫn đến tình hình văn hoá - xã hội khu vực này rất phức tạp, tệ nạn xã hội có chiều hướng bùng phát, gây ảnh hưởng xấu đến các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào tỉnh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

Thứ ba, Môi trường đầu tư đã được cải thiện nhưng còn nhiều biểu hiện của sự phân biệt đối xử đối với các thành phần kinh tế làm cho các thành phần kinh tế chưa mạnh dạn bỏ vốn đầu tư. Cơ chế và thủ tục vay tín dụng còn hạn chế, không khuyến khích các doanh nghiệp và nhà đầu tư vay vốn để đầu tư.

Cơ chế chính sách đất đai, hỗ trợ và cho vay vốn; tiêu thụ nông sản còn bất cập, thiếu đồng bộ. Đầu tư ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học vào sản xuất còn ít. Công tác thông tin tuyên truyền của các cấp, các ngành đến người dân ở nông thôn còn hạn chế. Nông dân còn thiếu thông tin về thị trường, thông tin khoa học và tiến bộ kỹ thuật mới trong nông nghiệp.

Phân tích mức độ hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hai tỉnh Vĩnh Phúc và Bình Dương - 11

Thứ tư, Phần lớn lực lượng lao động của tỉnh hiện nay vẫn tham gia chủ yếu vào hoạt động nông nghiệp. Trong khi lao động khu vực này chưa đóng góp nhiều cho GDP của tỉnh. Đây là một hạn chế lớn của tỉnh có quá trình

chuyển đổi cơ cấu kinh tế công nghiệp dựa chủ yếu vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Chuyển đổi cơ cấu thu nhập của người dân nghề nông dựa chủ yếu vào phát triển các hoạt động phi nông nghiệp (dịch vụ và buôn bán nhỏ), lĩnh vực này phát triển còn chậm. Hạn chế của sự biệt lập tương đối giữa khu vực kinh tế Trung ương và địa phương, giờ đây lại cộng thêm giữa kinh tế trong nước và nước ngoài, giữa sản xuất công nghiệp và dịch vụ… Hình ảnh phát triển mạnh mẽ của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài bên cạnh khu vực kinh tế địa phương chuyển đổi cơ cấu còn chậm, kinh tế nông nghiệp thu nhập còn thấp, đã hạn chế sự phối hợp, hỗ trợ, nâng cao tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh của kinh tế lãnh thổ hoạt động như một thể thống nhất.

Năm là, Vấn đề môi trường và cạn kiệt môi trường đang là vấn đề bức xúc hiện nay của cả hai tỉnh Bình Dương và Vĩnh Phúc. Vấn đề hiện nay cần kiểm soát chặt chẽ các dự án đầu tư, không nên cho các dự án đầu tư vào bất cứ giá nào. Mỗi dự án đầu tư chưa thực sự có đánh giá cụ thể tác động môi trường.

1.2.2. Nguyên nhân

- Hệ thống cơ chế chính sách tuy đã được sửa đổi bổ sung và ban hành nhưng chưa thật sự rõ ràng, còn chậm và chưa đồng bộ.

- Về thủ tục hành chính tuy đang tập trung thực hiện cơ chế một cửa ở các cơ quan cấp phép và quản lý đầu tư, nhưng còn phức tạp gây khó chịu cho nhà đầu tư. Việc tăng cường phân cấp mạnh hơn nữa quản lý đầu tư đi đôi với tăng cường cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra; giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, xuất nhập khẩu, hải quan... hạn chế.

- Sự phối kết hợp giữa các cấp, các ngành và các cán bộ công chức trong thực thi nhiệm vụ về thu hút đầu tư còn hạn chế, tư tưởng bao cấp và cơ chế “xin cho” vẫn còn nặng nề trong tiềm thức một bộ phận cán bộ công chức của tỉnh.

- Nguyên nhân khiến tỷ lệ vốn đầu tư FDI vào nông nghiệp - nông thôn còn thấp là do sản xuất nông lâm nghiệp thường gặp nhiều rủi ro hơn các ngành khác do chịu ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu, thiếu đảm bảo về điều kiện hạ tầng, đất đai và nguồn nhân lực.

2. Một số giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hai tỉnh Vĩnh Phúc và Bình Dương‌

2.1. Nâng cao năng lực quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước, đặc biệt là bộ máy quản lý dự án đầu tư

Để nền kinh tế xã hội của tỉnh phát triển ổn định, tỉnh cần quan tâm đến năng lực quản lý, điều hành quản lý của bộ máy nhà nước tại tỉnh. Năng lực đó bao gồm: năng lực của cá nhân các cán bộ trong hệ thống các cơ quan nhà nước, cơ chế hoạt động nội bộ của các cơ quan đó và sự liên kết các cơ quan trong hệ thống với nhau. Việc đào tạo bồi dưỡng, tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ được thực hiện một cách có hệ thống và đồng bộ, lấy kết quả cuối cùng làm tiêu thức để tổ chức các hoạt động đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Các chương trình đào tạo cần bao gồm hệ thống các hoạt động từ nghiên cứu nhu cầu thiết kế chương trình đào tạo thích hợp, tổ chức triển khai các hoạt động đào tạo và các hoạt động, giám sát, hỗ trợ sau đào tạo. Những giải pháp cụ thể:

Thực hiện đầy đủ các quy định về sắp xếp , tinh giản bộ máy cơ quan nhà nước cải cách thủ tục hành chính nhằm giải quyết kịp thời yêu cầu của các tổ chức công dân, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, thực hiện xã hội hóa các lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội, làm rõ nhiệm vụ chức năng của các sở ban nghành, xóa bỏ các chức năng chồng chéo, những nhiệm vụ, chức năng không cần thiết, tổ chức bộ máy gọn nhẹ, giảm đầu mối, thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Xây dựng một chương trình dài hạn, nhất quán về đào tạo và bồi dưỡng cho cán bộ quản lý cơ quan nhà nước trong tất cả các cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh. Chương trinh này cần được coi là một trong những chương trình trọng điểm của tỉnh trong những năm tới, được thiết kế trên cơ sở đánh giá nhu cầu một cách khách quan và toàn diện.

Nâng cao năng lực quản lý, điều hành và khả năng của cán bộ quản lý của nhà nước ở mọi cấp trong việc thích ứng môi trường luôn thay đổi, nhanh

chóng phát hiện và thích ứng với những yếu tố mới phát sinh từ quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế.

Rà soát các chức năng nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp tỉnh và điều chỉnh cho phù hợp với cơ quan hành chính, đơn giản hóa thủ tục kinh doanh, tạo lập sự phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan quản lý của nhà nước, thực hiện triệt để cơ chế “một cửa” ở các cơ quan quản lý nhà nước.

2.2 Nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật

Các tuyến đường cần được thay thế kịp thời vì thường xuyên xảy ra ách tắc. Do nguồn vốn có hạn nên tỉnh cần tranh thủ các nguồn vốn nhưng nên sử dụng tập trung từng bước và có trọng điểm đảm bảo cho các công trình giao thông chất lượng cao. Việc thiết kế các tuyến đường cần dựa trên nhu cầu dài hạn, ít nhất có khả năng đảm bảo lưu lượng giao thông trong vòng 10 năm nữa không cần sửa chữa lớn. Trọng tâm xây dựng nên được ưu tiên theo thứ tự: các tuyến đường kết nối các khu công nghiệp lớn với trung tâm giao thông, các thị trường có sức mua lớn, các làng nghề có tiềm lực phát triển cao, các đô thị, các điểm dân cư lớn, các vùng chuyên canh, thâm canh nông nghiệp có sản lượng sản phẩm hàng hóa lớn.

Việc đầu tư cho hệ thống giao thông và các điểm du lịch có tiềm năng nên được thực hiện một cách thận trọng và có chọn lọc. Điều này bắt nguồn từ yêu cầu đảm bảo hiệu quả kinh tế của các dự án trong điều kiện các nguồn vốn hạn chế: các khu du lịch chỉ có thể phát triển cao khi ở đó có các dịch vụ tổng hợp đa dạng có nhiều nguồn thu. Muốn vậy vốn đầu tư cần nhiều, nhưng quan trọng hơn là nguồn nhân lực kinh doanh và phục vụ kinh doanh du lịch trong các khu vực này phải có chất lượng cần thiết. Để làm tốt được điều này cần:

Thực hiện quan điểm đầu tư tập trung, tránh dàn trải, đầu tư có trọng điểm đề cao tính hiệu quả trong đầu tư. Nâng cao tính cạnh tranh và tính trung thực trong công tác đấu thầu, tăng cường công tác quản lý nhà nước, chống

thất thoát trong đầu tư, kiểm tra, giám sát, giám định chất lượng các công trình xây dựng cơ bản, không để nợ xấu trong xây dựng cơ bản.

Huy động các nguồn lực trong đầu tư phát triển, đẩy mạnh công tác đấu giá quyền sử dụng đất, đẩy mạnh hoạt động thu hút đầu tư, tháo gỡ những khó khăn, hỗ trợ đầu tư cho các dự án được cấp giấy phép, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa trong thủ tục hành chính về đăng ký kinh doanh, thuê đất vay vốn…để các dự án đi vào sản xuất.

Ưu tiên những dự án có khả năng khai thác sớm và hiệu quả. Các chương trình, dự án phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn…phát triển nguồn điện, hiện đại hóa mạng lưới phân phối điện đảm bảo cung cấp cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt. Tiếp tục đầu tư, nâng cấp các tuyến đường giao thông quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ, các tuyến đường nội thị…đầu tư xây dựng nâng cấp bến phà, bến cảng, hiện đại hóa mạng thông tin liên lạc. Tiếp tục thực hiện chương trình cấp nước sạch, từng bước xây dựng các công trình xử lý nước sạch ở nông thôn.

2.3. Đẩy mạnh công tác giải phóng mặt bằng để sớm quy hoạch các KCN-CCN

Hiện tại nhiều dự án chưa thể đi vào hoạt động là do công tác giải phóng mặt bằng còn chậm. Vì vậy cả hai tỉnh cần có biện pháp để đẩy nhanh tốc độ giải phóng mặt bằng, đảm bảo tiến độ thực hiện cho các dự án đầu tư. Cụ thể là:

Đẩy mạnh sự phối hợp giữa các cấp, ngành chức năng trong công việc bồi thường, giải phóng mặt bằng, nâng cao hơn nữa tính hiệu quả của công tác tuyên truyền, vận động đàm phán thuyết phục nhân dân.

Tập trung phối kết hợp các cấp các ngành từ tỉnh xuống xã để giải quyết dứt điểm tình trạng tái lấn chiếm tại các khu vực trọng điểm, đồng thời khẩn trương xúc tiến công việc xây dựng các khu tái định cư để di chuyển các hộ dân trong phạm vi đến nơi ở mới.

Tiếp tục triển khai công tác cấp đất dịch vụ cho nhân dân ở những nơi đã được UBND tỉnh phê duyệt để nhân dân yên tâm chuyển đổi đất.

Tăng cường hoạt động tiếp xúc giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý, nhanh chóng giải đáp các thắc mắc, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, bởi những doanh nghiệp này sẽ là chất xúc tác quan trọng để kêu gọi FDI, tạo tâm lý yên tâm tin cậy cho các nhà đầu tư mới đến tìm hiểu đầu tư.

Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động xúc tiến đầu tư. Có thể áp dụng tiếp nhận đăng ký giấy phép đầu tư qua mạng internet đối với những dự án chỉ cần đăng ký giấy phép hoặc cho những đự án tăng vốn đầu tư hoặc mở rộng kinh doanh. Như vậy sẽ giảm được thời gian và những rắc rối trong thủ tục hành chính cho các nhà đầu tư rất nhiều.

Tiếp tục tham gia các hoạt động xúc tiến đầu tư do nhà nước tổ chức đồng thời chủ động tổ chức các hội thảo, hội chợ triển lãm…thường xuyên và chuyên nghiệp hơn nữa, với tinh thần cởi mở, tăng cường thiết lập mối quan hệ với văn phòng đại diện, cơ quan xúc tiến đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

2.4. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của hoạt động xúc tiến đầu tư

Cả hai tỉnh không chỉ dừng lại ở việc quảng cáo, giới thiệu về địa phương mà phải theo một chương trình chủ động tích cực, có nội dung, phương thức rõ ràng, phù hợp với từng địa bàn, từng loại hình doanh nghiệp đầu tư.

Hai tỉnh nên thành lập một bộ phận chuyên môn riêng để nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế, chính sách của các nước, xu hướng đầu tư của các tập đoàn và công ty lớn, tìm hiểu những yêu cầu, mong muốn của họ để từ đó có thể đưa ra được những chính sách thu hút FDI phù hợp. Bộ phận này phải thường xuyên nghiên cứu, tổng hợp những hệ thống pháp luật, chính sách, xem xét có những điểm nào bất lợi đối với các doanh nghiệp không để kịp thời điều chỉnh trong phạm vi quyền hạn của tỉnh hoặc đưa kiến nghị lên nhà nước để từ đó có điều chỉnh phù hợp.

2.5. Tăng cường tính mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống cơ chế, chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp FDI

Mặc dù hai tỉnh đã có nhiều chính sách ưu đãi hỗ trợ đầu tư nước ngoài và được đánh giá là khá thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong những ưu đãi này cũng dần dần mất đi lợi thế của mình trong điều kiện cạnh tranh thu hút đầu tư mạnh mẽ như ngày nay. Do vậy cả hai tỉnh cần phải xem xét về:

Ưu đãi thuế suất vay vốn và phí cung cấp dịch vụ của ngân hàng và tổ chức tín dụng cho các doanh nghiệp FDI.

Có chính sách ưu đãi về thông tin, quảng bá trên báo đài, tạp chí, đài phát thanh và truyền hình địa phương cho các doanh nghiệp FDI trong một thời gian nhất định, xem xét miễn phí giảm tư vấn cho các nhà đầu tư.

2.6. Lập kế hoạch phát triển nguồn nhân lực, nâng cao trình độ, năng lực và đảm bảo quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp FDI

Các nhà hoạch định chính sách cần có kế hoạch dài hạn để phát triển, đào tạo, nâng cao trình độ, năng lực của người lao động.

Trước hết cần đầu tư phát triển hệ thồng giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp từ giáo dục tiểu học mầm non đến phổ thông trung học để tạo nền tảng cho giáo dục nghề nghiệp sau này. Đầu tư về cơ sở vật chất, trường lớp, giáo cụ học tập, xây dựng chương trình học phù hợp với chương trình chung của cả nước đồng thời khuyến khích được năng lực tư duy, sáng tạo, ham học hỏi của học sinh, nâng cao năng lực, kiến thức của đội ngũ giáo viên.

Tỉnh cũng cần tập chung phát triển hệ thống các cơ sở giáo dục nghề nghiệp của tỉnh: quy hoạch và phát triển hệ thống cơ sở dạy nghề, đầu tư xây dựng trường đào tạo nghề tỉnh hiện đại, đủ năng lực đào tạo công nhân có trình độ cao như cơ khí chính xác, sản xuất lắp rắp điện tử…nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư nước ngoài. Đánh giá lại một cách chính xác nhu cầu đào tạo trong giai đoạn tới và từng cơ sở hiện trên địa bàn tỉnh và các tỉnh lân cận để từ đó cải tiến cơ chế hoạt động và định hướng hoạt động cho các đơn vị dạy nghề trong tỉnh. Việc xây dựng các trường đào tạo nghề có thể đòi hỏi chi

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 12/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí