chính, những tài sản có giá có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, ông đã đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp.
Trong cuốn kinh tế học của David Beeg, tác giả đã đưa ra hai định nghĩa về vốn: Vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá, sản phẩm đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá trị của doanh nghiệp. Như vậy David Beeg đã bổ sung định nghĩa vốn tài chính cho định nghĩa vốn của Samuelson.
Nhìn chung, các nhà kinh tế đã thống nhất ở điểm chung cơ bản: Vốn là yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh, được sử dụng để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ cung cấp cho thị trường. Như vậy, vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ vật tư, tài sản, được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy vốn là một loại hàng hoá đặc biệt.
Trước hết, vốn là hàng hoá vì nó có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của vốn thể hiện ở chi phí mà chúng ta bỏ ra để có được nó. Giá trị sử dụng của vốn thể hiện ở việc ta sử dụng nó để đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh ( mua máy móc, thiết bị, hàng hoá…)
Vốn là hàng hoá đặc biệt bởi vì có sự tách biệt rõ ràng giữa quyền sử dụng và quyền sở hữu. Khi vay vốn chúng ta chỉ có quyền sử dụng vốn còn quyền sở hữu vẫn thuộc về chủ sở hữu của nó. Tính đặc biệt của vốn còn thể hiện ở chỗ vốn không bị hao mòn hữu hình trong quá trình sử dụng mà còn có khả năng tạo ra giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Chính vì vậy, giá trị của vốn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố của môi trường kinh tế vĩ mô, không phụ thuộc vào lợi ích cận biên của bất kỳ doanh nghiệp nào. Điều này đặt ra nhiệm vụ đối với nhà quản trị tài chính là phải làm sao sử dụng tối đa hiệu quả vốn để đem lại một giá trị thặng dư tối đa, đủ chi trả cho chi phí bỏ ra để vay vốn và có lợi nhuận tối đa.
Quá trình sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp được tiến hành liên tục do vậy vốn của doanh nghiệp cũng được vận động không ngừng tạo ra sự tuần hoàn và chu chuyển vốn. Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn, vốn thay đổi cả về hình thái và lượng giá trị. Vốn trong các doanh nghiệp sản xuất được vận động như sau:
TLLĐ
T H SXH’ T’
Có thể bạn quan tâm!
- Phân tích hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Kinh đô miền bắc - 1
- Phân tích hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Kinh đô miền bắc - 2
- Vai Trò Của Việc Nâng Cao Hiệu Quả Sử Dụng Vốn
- Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Hiệu Quả Sử Dụng Vốn
- Kết Quả Hoạt Động Sản Xuất Kinh Doanh Của Công Ty Trong Giai Đoạn 2004-2008.
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
ĐTLĐ (T’ > T)
Bắt đầu là hình thái vốn tiền tệ sang hình thái vốn sản xuất (TLLĐ, ĐTLĐ). Sau quá trình sản xuất vốn chuyển hoá thành hình thái vốn hàng hoá. Cuối cùng trở lại hình thái vốn tiền tệ.
Do sự luân chuyển không ngừng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc vốn của doanh nghiệp tồn tại dưới các hình thái khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh.
1.1.1.2. Đặc trưng của vốn trong doanh nghiệp
Quá trình sản xuất kinh doanh chỉ được tiến hành khi có vốn, vốn quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nó bao gồm những đặc trưng sau:
- Vốn là một loại hàng hoá đặc biệt, nó có giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị của vốn chính là giá trị của bản thân nó, còn giá trị sử dụng là thông qua việc mua bán trên thị trường, vốn sẽ tạo ra một giá trị sử dụng lớn hơn.
- Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản thực trong doanh nghiệp, hay nói cách khác, vốn thể hiện giá trị của tài sản. Không phải mọi tài sản đều được coi là vốn, chỉ những tài sản có giá trị được sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh mới được coi là vốn.
- Vốn luôn vận động nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để biến thành vốn thì tiền phải được vận động trong quá trình sản xuất kinh doanh, biến đổi qua các hình thái khác nhau và trở về hình thái ban đầu với lượng giá trị lớn hơn.
- Vốn có giá trị về mặt thời gian, một đồng vốn ở thời điểm hiện tại sẽ lớn hơn một đồng vốn trong tương lai, do đó xem xét hiệu quả kinh doanh là xem xét mỗi đồng vốn bỏ vào kinh doanh phải không ngừng vận động và tăng trưởng.
- Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, vốn phải có chủ thì mới sử dụng hiệu quả, những đồng vốn không có chủ thường bị sử dụng lãng phí, kém hiệu quả. Do đó, việc xác định rõ chủ sở hữu sử dụng vốn là vấn đề quan tâm của không những nhà đầu tư mà còn của các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước khi doanh nghiệp kêu gọi vốn đầu tư.
- Vốn phải được tập trung đến một luợng nhất định mới có thể tác dụng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nếu đồng vốn phân tán, rải rác không đủ lớn thì việc thực hiện đầu tư không thành, doanh nghiệp mất cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Do vậy doanh nghiệp luôn phải tìm cách tập trung và thu hút vốn tạo một lượng vốn đủ lớn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Phân loại vốn trong doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để quản lý và sử dụng vốn một cách có hiệu quả các doanh nghiệp đều tiến hành phân loại vốn. Tuỳ vào mục đích và loại hình của từng doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp phân loại vốn theo các tiêu thức khác nhau.
1.1.2.1. Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển.
Phân loại theo cách này vốn trong doanh nghiệp được chia thành hai loại: vốn cố định và vốn lưu động.
a. Vốn cố định.
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định, đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời hạn sử dụng.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tài sản cố định của doanh nghiệp gồm tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Tài sản cố định hữu hình: Là những tư liệu lao động chủ yếu được biểu hiện bằng các hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, các vật kiến trúc…
Theo chế độ quy định hiện hành những tư liệu lao động nào đảm bảo đủ hai điều kiện sau đây sẽ được gọi là tài sản cố định hữu hình:
- Giá trị >= 10.000.000 đồng.
- Thời gian sử dụng >=1 năm.
Tài sản cố định vô hình: Là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí mua bằng sáng chế, phát minh hay nhãn hiệu thương mại …
Đặc điểm chung của các tài sản cố định trong doanh nghiệp là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh với vai trò là các công cụ lao động. Trong quá trình đó hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của tài sản cố định không thay đổi, song giá trị của nó lại chuyển dịch dần dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp khi sản phẩm được tiêu thụ.
Những đặc điểm kinh tế của tài sản cố định trong quá trình sử dụng có ảnh hưởng quyết định chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định, đó là:
+ Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuát kinh doanh, điều này là do đặc điểm của tài sản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất quyết định
+ Vốn cố định được luân chuyển dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất kinh doanh. Khi tham gia vào quá trình sản xuất một bộ phận vốn cố định được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của tài sản cố định.
+ Sau nhiều chu kỳ sản xuất, vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm tăng lên, phần vốn đầu tư ban đầu vào tài sản cố định dần giảm xuống cho đến khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất ra thì vốn cố định hoàn thành một vòng luân chuyển.
Vốn cố định là bộ phận vốn quan trọng trong toàn bộ vốn của doanh nghiệp. Quy mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Từ những đặc điểm luân chuyển vốn cố định đòi hỏi việc quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các tài sản cố định.
b. Vốn lưu động
Vốn lưu động của doanh nghiệp là vốn tiền tệ ứng trước để đầu tư, mua sắm các tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Tài sản lưu động của doanh ngiệp được chia thành 2 loại: Tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất bao gồm các loại nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang, phụ tùng thay thế… đang trong quá trình dự trữ, sản xuất hoặc chế biến. Tài sản lưu thông bao gồm các sản phẩm thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong thanh toán...Trong quá trình sản xuất kinh doanh các tài sản lưu động sản xuất và các tài sản lưu động lưu thông luôn vận động thay thế chuyển hoá lẫn nhau đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục.
Đặc điểm vận động của vốn lưu động luôn chịu sự chi phối bởi đặc điểm của tài sản lưu động. Vốn lưu động của doanh nghiệp không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh đó là dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông
Quá trình này được diễn ra liên tục thường xuyên lặp đi lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn chu chuyển của vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, vốn lưu động lại thay đổi hình thái biểu hiện: Từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái vốn vật tư hàng hoá trong dự trữ và sản xuất, cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất vốn lưu động hoàn thành một vòng chu chuyển.
Từ những đặc điểm của tài sản lưu động và đặc điểm vận động của vốn lưu động lưu trên, trong quản lý sử dụng vốn lưu động cần chú ý tới các nội dung:
+ Xác định vốn lưu động trong kỳ kinh doanh
+ Tổ chức khai thác các nguồn tài trợ vốn lưu động
+ Luôn có giải pháp bảo toàn và phát triển vốn lưu động
+ Thường xuyên tiến hành phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động
1.1.2.2. Phân loại vốn theo nguồn hình thành
Phân loại theo cách này vốn trong doanh nghiệp được chia thành hai loại: Vốn chủ sở hữu và vốn vay.
Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp, đó là phần vốn mà doanh nghiệp tự có bao gồm vốn pháp định, vốn tự bổ xung từ lợi nhuận giữ lại, các quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng,….Đối với doanh nghiệp cổ phần thì có thể bổ sung vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành thêm cổ phiếu.
Vốn vay là phần vốn của doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp được sử dụng trong một thời gian nhất định sau đó phải hoàn trả lại cho chủ sở hữu cả gốc lẫn lãi. Phần vốn này có được từ hoạt động vay nợ, phát hành cổ phiếu….
Đối với mọi loại hình doanh nghiệp thì luôn phải có một tỉ lệ vốn vay nhất định để đáp ứng nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Một doanh nghiệp có tỉ lệ vốn vay cao không có nghĩa là doanh nghiệp đó làm ăn không hiệu quả mà tỉ lệ vốn vay cao hay thấp phụ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải xác định cho mình tỉ lệ vốn chủ sở hữu và vốn vay một cách hợp lý để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp nào có khả năng huy động vốn tốt sẽ thuận lợi cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó.
1.1.3. Vai trò của vốn trong doanh nghiệp
Qua việc xem xét các khái niệm và phân loại về vốn, ta có thể thấy vốn là tiền đề cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Phải có một lượng tiền nhất định mới có thể tiến hành các hoạt động đầu tư, bắt đầu từ việc doanh nghiệp mua các tài sản cần thiết cho việc xây dựng và khởi động doanh nghiệp ( máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mua phát minh sáng chế…), đảm bảo cho sự vận động của doanh nghiệp (mua nguyên vật liệu, trả lương cho công nhân, trả lãi…) và sự tăng trưởng của doanh nghiệp (đầu tư mở rộng dây chuyền sản xuất…). Vậy vốn là yếu tố khởi đầu, bắt nguồn của mọi hoạt
động kinh doanh, nó tồn tại và đi liền xuyên suốt giúp cho các doanh nghiệp hình thành và phát triển.
Vốn của các doanh nghiệp có vai trò quyết định cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của từng loại doanh nghiệp theo luật định. Trong những nền kinh tế khác nhau, những loại hình doanh nghiệp khác nhau tầm quan trọng của vốn cũng được thể hiện ở mức độ khác nhau.
Vốn là yếu tố quyết định mức độ trang thiết bị kỹ thuật, quyết định việc đổi mới công nghệ, hiện đại hoá dây chuyền sản xuất, ứng dụng thành tựu mới của khoa học và phát triển sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công và đi lên của doanh nghiệp.
Vốn còn là một trong những điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có và tiềm năng tương lai về sức lao động, nguồn hàng hoá, mở rộng và phát triển thị trường, mở rộng lưu thông hàng hoá, là điều kiện để phát triển kinh doanh, thực hiện các chiến lược, sách lược kinh doanh, là chất keo để nối chắp, dính kết các quá trình và quan hệ kinh tế, là dầu bôi trơn cho cỗ máy kinh tế hoạt động.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn tham gia vào tất cả các khâu, ở mỗi khâu nó thể hiên dưới các hình thái khác nhau như vật tư, vật liệu, hàng hoá… và cuối cùng lại trở về hình thái ban đầu là tiền tệ. Như vậy, sự luân chuyển của vốn giúp cho doanh nghiệp thực hiện được hoạt động tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng của mình.
Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy thì doanh nghiệp mới có thể sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả hơn và luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm, vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
1.2.1.1. Khái niệm
Khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn luôn theo đuổi một mục tiêu chính là làm thế nào để đạt được hiệu quả kinh