dựng cho mô hình với biến được dự báo là một biến nhị nguyên, nhận 2 giá trị tương ứng với sự hiện diện hay vắng mặt của một đặc tính hay một kết quả cần quan tâm nào đó. Các hệ số trong phương trình hồi quy có thể sử dụng ước lượng các hệ số co giãn (tỷ số chênh) cho từng biến độc lập trong mô hình. Kết hợp với phương pháp hồi quy logistic nhị nguyên, đề tài còn sử dụng phương pháp duy vật bện chứng, duy vật lịch sử, so sánh, phân tích.
5. Những đóng góp của luận án
- Về mặt phát triển khoa học nghiên cứu đã: (i) Phát hiện và thẩm định các nhân tố ảnh hưởng đến cầu đào tạo từ xa và lượng hóa mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, (ii) Xây dựng hàm cầu đào tạo từ xa tại Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: Căn cứ vào các nhân tố tác động tới cầu đào tạo từ xa và mối quan hệ giữa chúng đã được nghiên cứu, làm cơ sở đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách đối với phát triển đào tạo từ xa, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án bao gồm các chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu. Chương 2: Thực trạng giáo dục từ xa tại Việt Nam.
Chương 3: Kết quả thực nghiệm ước lượng hàm cầu đào tạo từ xa ở Việt Nam.
Chương 4: Ứng dụng kết quả nghiên cứu trong hoạch định chính sách đào tạo từ xa ở Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới cầu đào tạo từ xa ở Việt Nam - 1
- Đường Cầu Giáo Dục Từ Xa (D 1 )
- Trình Tự Phương Pháp Nghiên Cứu Cầu Đào Tạo Từ Xa
- Các Công Trình Nghiên Cứu Trong Nước
Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận về ước lượng và dự báo cầu đào tạo từ xa
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm đào tạo từ xa
1.1.1.1. Tiến trình của khái niệm đào tạo từ xa
Đào tạo từ xa hiện đại được bắt đầu vào năm 1963 (Peraton, 2007)[58]. Trong năm đó tại Vương quốc Anh, Viện Khuyến học quốc gia được thành lập, là một mô hình cho trường Đại học Mở. Phương pháp luận của đào tạo từ xa trong những năm gần đây được gọi là học tập từ xa, nêu ra nguyên lý rằng: Đào tạo phải được mở cho tất cả mọi người. Đào tạo mở hay còn gọi là học mở phải là tầm nhìn hệ thống giáo dục, mở ra cho mọi người với sự hạn chế tối thiểu. Triết lý này nhấn mạnh sự linh hoạt và mềm dẻo của hệ thống, giảm thiểu rào cản gây ra do tuổi tác, vị trí địa lý, khó khăn về thời gian và tình trạng kinh tế (Bates, 1995)[16]. Vì vậy, đào tạo mở và từ xa là hệ thống kết hợp giữa phương pháp luận của đào tạo từ xa với các khái niệm về học tập mở và linh hoạt. Đào tạo mở và từ xa là một khái niệm lý tưởng mà trong thực tế khó thực hiện. Các chuyên gia đào tạo từ xa cho rằng, có rất nhiều nguyên tắc của đào tạo mở có thể được thực hiện tốt hơn bằng phương thức đào tạo từ xa so với cách tiếp cận của giáo dục mặt - giáp - mặt.
Sự phát triển đào tạo từ xa đã được chi phối bởi triết lý giáo dục rằng sử dụng tài liệu dạy và học được tiêu chuẩn hóa và chuẩn bị trước để đạt được lợi ích kinh tế do quy mô đem lại. Điều này cũng nhấn mạnh triết lý về tính mở của đào tạo và nhu cầu độc lập của người học. Mong muốn tăng cường sự tiếp cận với giáo dục đã trở thành động lực chính tại nhiều quốc gia áp dụng đào tạo từ xa (Garrison, 1993)[27]. Moore (1993)[49] cho rằng, khi học liệu đã được chuẩn bị sẵn, học viên có thể tự chủ quá trình học tập, phù hợp với điều kiện riêng của họ. Trên cơ sở nhìn nhận như vậy, đào tạo từ xa được coi như là một loại hình giáo dục mang tính công nghiệp, và cũng là sản phẩm của một xã hội công nghiệp (Peters, 1997)[56]. Theo Peters, hệ thống đào tạo từ xa có nhiều điểm giống một nhà máy công nghiệp, với sự phân công lao động rõ ràng, cơ chế hoạt động, định hướng tới sản lượng lớn
được tiêu chuẩn hóa, và sự tập trung hóa của hệ thống. Do những tương đồng mang tính công nghiệp, đào tạo từ xa đã được chấp nhận của xã hội công nghiệp như là một hình thức đào tạo lao động hàng loạt. Peters lập luận rằng phương thức đào tạo từ xa cũng nên thay đổi để đáp ứng sự thay đổi của xã hội hậu công nghiệp. Đó là trường hợp ngày nay của xã hội thông tin. Quá trình đào tạo từ xa trước kia chủ yếu dựa vào việc sử dụng các học liệu được chuẩn bị trước với sự cung ứng của bưu điện, việc bổ sung cho ngày hôm nay của công nghệ thông tin và truyền thông làm cho quá trình học tập mang tính cá thể hóa và tương tác. Tuy nhiên những nhu cầu đào tạo của xã hội hậu công nghiệp khác với nhu cầu của xã hội công nghiệp. Đó là do có sự thay đổi về nhu cầu kỹ năng nghề nghiệp và lĩnh vực chuyên môn. Mô hình đào tạo từ xa cổ điển dựa trên hệ thống học liệu hàm thụ được chuẩn bị hàng loạt từ trước không còn đáp ứng yêu cầu ngày nay, nhu cầu cho một phong cách đào tạo tương tác có khả năng điều chỉnh theo nhu cầu đào tạo của phương thức đào tạo từ xa đang phát triển mang tính cá thể hóa một cách hiệu quả. Công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại có thể bổ sung các tính năng mà mô hình đào tạo từ xa trước kia chưa có.
Các phương pháp sản xuất, công nghệ truyền thông, nhận thức vấn đề và chiến lược giải quyết vấn đề ngày nay có thể không còn phù hợp trong tương lai nữa (Peters, 1999)[59].
Trên cơ sở này cần có mô hình phát triển đào tạo từ xa với thông tin hai chiều một cách hiệu quả giữa thầy và trò, giữa học viên với tài liệu, và giữa người học với cơ sở đào tạo. Quy trình một chiều (ví dụ, học liệu in ấn, hình thức ghi âm ghi hình hoặc phát sóng), được bổ sung bằng các thông tin phản hồi hai chiều giữa thày và trò, cơ sở đào tạo có thể bổ sung các chương trình. Holmberg (1983)[38] chỉ ra rằng, mặc dù thực tế đào tạo từ xa được thiết kế cho việc học độc lập, nó không thể không có các dịch vụ hỗ trợ. Thậm chí, mặc dù giao tiếp dưới hình thức hội thoại trực tiếp còn khó khăn, đào tạo từ xa có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác để tạo môi trường tương tác cho người học. Holmberg (1983) trong cuốn “ Khái niệm hướng dẫn tạo tương tác” đề cập đến một cách tương tác hai chiều một
cách hiệu quả, ví dụ, in qua điện thoại. Mục tiêu và tinh thần của bầu không khí này được thực hiện trong các thiết kế nhạy cảm về học liệu, ra bài tập, và hỗ trợ học tập. Thông qua học liệu tốt, học viên có thể có được một “không khí” như trong một cuộc trò chuyện với những người thầy của họ, và điều này sẽ giúp quá trình tự học đạt kết quả với sự hỗ trợ của học liệu.
Cuốn “Hướng dẫn tạo tương tác” nhấn mạnh tầm quan trọng của: (i) Cách trình bày rõ ràng trong học liệu, bằng ngôn ngữ dễ hiểu, (ii) Hướng dẫn rõ ràng về những việc cần làm và không làm, những gì quan sát và lý do, (iii) Một khuyến khích học viên thảo luận, đặt câu hỏi, và đánh giá tài liệu, (iv) Nỗ lực thúc đẩy học viên để người học hưng phấn với tài liệu và các vấn đề chuyên môn, (v) Một phong cách cá nhân của văn bản, bao gồm cả việc sử dụng cách xưng hô, (vi) Một danh giới rõ ràng các chủ điểm và các chủ đề, ví dụ: Bằng cách ghi rõ những thay đổi, hoặc trong sản xuất học liệu được ghi lại bằng cách sử dụng các giọng nói khác nhau.
Theo Sewart (1984)[64], tuy nhiên học liệu được sản xuất trước không thể hoàn toàn thay thế các chức năng và vai trò của giáo viên. Sự thiếu vắng của thông tin phản hồi đối với học viên từ xa có thể ảnh hưởng không tốt tới kết quả học tập. Học viên có nhu cầu khác nhau mà học liệu không thể dự kiến được, và có thể không hài lòng với học liệu học tập được sản xuất hàng loạt. Tương tự như vậy, Sewart đề cập đến tầm quan trọng của việc tổ chức các dịch vụ hỗ trợ người học. Một trong những loại hỗ trợ đó là thầy hướng dẫn, tư vấn chịu trách nhiệm về mặt học tập và hướng dẫn học viên về mặt cá nhân. Sewart cho rằng, thầy hướng dẫn với tư cách là thầy về chuyên môn và tư vấn cá nhân có thể cải thiện đáng kể chất lượng quá trình giảng dạy và học tập từ xa. Sự phát triển của công nghệ thông tin, chẳng hạn như âm thanh, phòng học truyền hình, đã làm tăng quá trình tương tác, giảm thiểu khoảng cách giữa các hoạt động dạy và hoạt động học mà trước đó tạo ra tâm lý và giao dịch từ xa trong quá trình học tập (Moore, 1993)[49].
1.1.1.2. Từ Đào tạo Từ xa đến Đào tạo Mở
Lợi ích của công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại đã tạo ra một hướng tư duy rộng hơn về đào tạo từ xa. Giải pháp cho vấn đề giãn cách giữa thầy và trò trong đào tạo từ xa cho phép sử dụng rộng rãi hơn các phương tiện. Khi các hoạt động giảng dạy và học tập có hiệu quả trong thời gian không đồng thời (asynchronously), hai vấn đề chính được giải quyết: (i) Tỷ lệ giảng viên/ học viên truyền thống thường giới hạn khả năng tiếp thu, (ii) Bức tường lớp học thường giới hạn khả năng đào tạo. Vượt qua những rào cản, chuyển từ đào tạo “Đóng” về bản chất sang quá trình “Mở” hơn về thực tế, và các lớp học không còn bị ràng buộc với các lớp học nữa.
Sự phát triển của nền kinh tế xã hội, qua nhiều thập kỷ cũng đã làm thay đổi những yêu cầu đặc trưng cho một nền giáo dục. Trong thời đại tiền công nghiệp, đào tạo từ xa chủ yếu làm phương tiện cung cấp lực lượng lao động chất lượng cao, xã hội hậu công nghiệp đang chuyển dần theo hướng nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Trong thời đại hậu công nghiệp, giáo dục tập trung nhiều hơn vào việc tự ý thức và đáp ứng những nhu cầu cá nhân, ví dụ tăng thêm niềm hạnh phúc và sự hài lòng với cuộc sống (Peters, 1993)[55]. Nhu cầu đào tạo không còn giới hạn ở nhóm “Tuổi đi học” nữa, mà liên quan đến nhu cầu học tập suốt đời của người dân. Điều này biểu hiện ngày càng cao về mức độ phổ biến các loại hình đào tạo không chính quy và đào tạo thường xuyên, tạo cho người dân thoải mái hơn là văn bằng. Ngoài ra công nghệ tiên tiến và công nghiệp dịch vụ đã làm thay đổi loại hình kỹ năng cần thiết trong thị trường lao động (Peters, 1999)[59]. Điều đó dẫn tới sự gia tăng nhu cầu đào tạo chuyên nghiệp thường xuyên. Và đào tạo từ xa được mở rộng hơn, từ mô hình đào tạo từ xa đơn thuần đến đào tạo thường xuyên kết hợp.
Vì vậy, đào tạo từ xa có thể được xem như là một phương pháp thích hợp cho việc theo đuổi các mục tiêu khác nhau, bao gồm cả việc nâng cao kỹ năng chuyên nghiệp, thỏa mãn sở thích, và nhu cầu tự chủ. Tại các quốc gia đang phát triển, nơi người dân sống trong kinh tế hạn hẹp và cô lập ở vùng nông thôn, đào tạo từ xa được xem như là một phương tiện cung cấp cơ hội thứ hai cho những người dân không thể theo học tập trung trong hệ thống đào tạo mặt-giáp-mặt. Đào tạo từ
xa trở nên phổ biến hơn một hệ thống đào tạo thay thế một cách đơn thuần, và là yếu tố duy nhất có khả năng thúc đẩy sự cởi mở của nền giáo dục, giảm thiểu rào cản về thời gian, địa điểm hoàn cảnh kinh tế, tuổi tác và trình độ ban đầu. Các khái niệm về học tập suốt đời và đào tạo cho mọi người nhấn mạnh rằng mọi người phải có cơ hội để học tập và để nhận được một nền giáo dục suốt đời. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc - United Nations Educational, Scientific and Cultural Orgnization (1996) đã thừa nhận nội hàm khái niệm về đào tạo mở:
“Đào tạo là quyền cơ bản của con người, là giá trị phổ thông của con người, cần thực hiện qua toàn bộ cuộc đời của mỗi cá nhân”[67].
1.1.1.3. Tăng cường tính mở: Thiết kế hệ thống và công nghệ
Mặc dù khái niệm về đào tạo mở đã được phổ biến rộng rãi, chưa có nhà cung cấp đào tạo mở và từ xa nào đạt được 100% tính mở. Trong thực tế, nhiều cơ sở đào tạo từ xa vẫn còn nêu ra các điều kiện xét tuyển, làm giảm bớt sự cởi mở. Tính mở của đào tạo từ xa có thể được nâng lên trong việc thiết kế một hệ thống học tập linh hoạt hơn (Belawati, 1999)[18], ví dụ, thông qua: (i) Hệ thống nhập học và kết thúc thông thoáng hơn: Người học có thể bắt đầu và kết thúc quá trình học tập tại bất kỳ thời điểm trong năm, tùy theo hoàn cảnh cá nhân, (ii) Không cần tiêu chí lựa chọn: Bất kỳ người nào đăng ký một chương trình sẽ được chấp nhận miễn là họ đáp ứng các bằng cấp cơ bản tối thiểu cần thiết để hỗ trợ cho quá trình học tập.
Một hệ thống đăng ký mở: Mỗi cá nhân có thể đăng ký theo học một học phần hoặc toàn bộ chương trình, hoặc đăng ký học một số môn nhất định. Đăng ký mở cũng nên cho phép học viên tích lũy học phần của các khóa học trước đó để đủ điều kiện tốt nghiệp.
Thiết kế một hệ thống đào tạo với ba điểm trên sẽ tăng thêm tính mở của đào tạo từ xa. Sự phản hồi về chương trình đào tạo từ xa qua mạng Internet cho thấy rằng nhu cầu của công chúng đối với loại hình này là cao. Đào tạo từ xa là loại hình đào tạo mới, những cơ sở đào tạo chỉ cung cấp loại hình mặt-giáp-mặt hoặc từ xa đối với đại học mở, được coi là cơ sở đào tạo đơn mẫu. Những năm 2000, đào tạo từ xa được tăng cường tính mở nhờ có sự tham gia của công nghệ mới. Đào tạo trực
tuyến (E-Learning) là loại hình mà mỗi quy trình đều sử dụng Internet kể cả chuyển tải nội dung học tập lẫn điều kiện tương tác giữa thày và trò (Belawati, 2003)[19]. Sự phổ biến rộng rãi của E-Learning trong đào tạo đã được tăng cường do sự xuất hiện của các phần mềm mã nguồn mở (Open-source Software), làm cho phần mềm hệ thống quản lý học tập (Learning Management Systems) cũng sẵn sàng và thường được miễn phí. Với các phần mềm đó, đào tạo mở và từ xa có thể được thiết lập và duy trì với đầu tư thấp. E-Learning làm cho đào tạo từ xa có tính tương tác hơn, cá thể hóa và ít tốn kém, trong khi ngày càng tăng phạm vi phục vụ về mặt địa lý, đối tượng xã hội. Kết quả là E-Learning đã làm tăng vị thế của khái niệm đào tạo mở và từ xa, hấp dẫn những nhà giáo dục mà trước kia họ vẫn coi thường đào tạo từ xa, và E-Learning khiến nhiều trường vốn không phải là những cơ sở đào tạo từ xa nay đã tiến hành các chương trình đào tạo từ xa thêm vào các chương trình đào tạo mặt - giáp - mặt của họ. Bằng cách làm như vậy, họ trở thành cơ sở đào tạo song mẫu. Sự liên kết hợp tác giữa nhiều cơ sở đào tạo từ xa thường để chia sẻ tài nguyên học tập gọi là “consortium”.
Những tiến bộ của đào tạo từ xa được tăng cường chủ yếu do sự phát triển của phần cứng và cơ sở hạ tầng, đồng thời do phong trào “Tài nguyên giáo dục mở” ngày càng phát triển cho phép sử dụng hoặc tái sử dụng miễn phí các tài liệu trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu. Việc sử dụng ngày càng nhiều các hệ thống phần cứng và phần mềm tinh vi, dĩ nhiên không thể loại trừ việc sử dụng tài liệu in ấn trong khóa học. Tài liệu in ấn vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nhiều cơ sở đào tạo từ xa, các công nghệ cao được dùng để bổ sung hỗ trợ cho quá trình giảng dạy và học tập. Mỗi công nghệ/ phương tiện có khả năng khác nhau về tiếp cận và tương tác, trong khi nhiều công nghệ thông tin và truyền thông có khả năng thực hiện các cuộc giao tiếp từ xa thì việc công chúng có thể truy cập vào vẫn còn hạn chế. Panda (2005)[59] cho rằng các chương trình trực tuyến tại Đại học Mở Quốc gia Indira Gandhi (Indira Gandhi National Open University) ở Ấn độ chỉ có được thành công đối với những người giàu, có thiết bị kỹ thuật số truy cập vào Internet hoặc tới các trung tâm học tập thường xuyên. Hơn nữa chi phí cao cho các công nghệ tinh vi này
đối với cả người học và cơ sở đào tạo, những vấn đề về khả năng tiếp cận và chi phí, cần có sự hỗ trợ kỹ thuật, quy định, các ứng dụng và các rào cản về chính trị (Latchem, Lockwood & Baggaley, 2008)[45]. Có thể phải mất nhiều năm để giải quyết trong một số các nước đang phát triển. Sự hội tụ của các thiết kế hệ thống và công nghệ cao, công nghệ thông tin chỉ là một bước nhỏ theo hướng tăng cường sự cởi mở của nền giáo dục một cách đầy đủ.
1.1.1.4. Kết luận
Như vậy, đào tạo mở và từ xa là một khái niệm xuất phát từ phương pháp đào tạo từ xa hàm thụ trong thời đại công nghiệp. Các hệ thống đào tạo từ xa vẫn giữ vai trò đáp ứng nhu cầu xã hội trong thời kỳ hậu công nghiệp và phát triển theo hướng cho người dân tự hoàn thiện bản thân và đáp ứng nhu cầu cá nhân. Ngoài ra, sự phát triển công nghệ của kỷ nguyên mới đã làm gia tăng nhu cầu đào tạo thường xuyên về nghề nghiệp, và sự thay đổi trong định hướng theo hướng giáo dục thường xuyên đã làm tăng thêm tính mở của khái niệm về học tập suốt đời cho tất cả mọi người. Tiến bộ của công nghệ thông tin và truyền thông làm tăng thêm khả năng tương tác của đào tạo từ xa. Tuy nhiên nhiều quốc gia tập trung vào việc sử dụng các công nghệ tinh vi có thể làm giảm số lượng công chúng tiếp cận với giáo dục. Việc lựa chọn công nghệ và thiết kế các hệ thống học tập phù hợp đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mức độ cởi mở của hệ thống đào tạo từ xa. Về lý luận, đào tạo mở và từ xa là hệ thống nhằm vượt qua những khó khăn về khoảng cách, nhất thời hay thường xuyên, yếu tố kinh tế, hạn chế cá nhân, với lý tưởng mở cơ hội học tập cho tất cả mọi người.
1.1.2. Các nhân tố tác động đến cầu đào tạo từ xa
Các nhà Kinh tế học cho rằng, đào tạo nói chung và đào tạo từ xa nói riêng là một dịch vụ đào tạo, các hệ thống dịch vụ đào tạo từ xa giữ vai trò đáp ứng nhu cầu xã hội và phát triển theo hướng người dân tự hoàn thiện bản thân và đáp ứng nhu cầu cá nhân [3(a)].
1.1.2.1. Các khái niệm cơ bản