Ngoài ra, luận án còn kế thừa kết quả của một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, sách, báo, tài liệu ... có liên quan đến những nội dung được đề cập trong luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như nguyên tắc khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn, lôgíc - lịch sử…
Luận án còn kết hợp các phương pháp khác như: phân tích và tổng hợp,
quy nạp và diễn dịch, thống kê, mô tả, so sánh...
5. Những đóng góp về khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ dưới góc độ triết học vai trò của nhà nước đối với
việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng và đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao vai trò nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Có thể bạn quan tâm!
- Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay - 1
- Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay - 3
- Những Giá Trị Của Các Công Trình Đã Nghiên Cứu Và Một Số Định Hướng Mà Luận Án Tiếp Tục Phải Thực Hiện
- Mối Quan Hệ Biện Chứng Giữa Nội Lực Và Ngoại Lực
Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án bước đầu làm sáng tỏ về mặt lý luận vai trò của nhà nước đối với
việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Luận án góp phần vào công tác tổng kết thực tiễn thông qua việc làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Từ đó, công trình này đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản và thiết thực nhằm nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu lý luận, phục vụ công tác giảng dạy ở các trường đại học, học viện…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Cho đến nay, khó có thể thống kê hết số lượng công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề phát huy vai trò của nhà nước, phát huy nội lực, ngoại lực và hội nhập quốc tế, song có thể thấy, mỗi công trình, đề tài, ở các góc độ khác nhau đã cung cấp những tư liệu khoa học cả về lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho những người quan tâm nghiên cứu và những người hoạch định chính sách về các vấn đề nêu trên. Trong số các công trình đó, có một số nhóm công trình tiêu biểu như sau:
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NỘI LỰC, NGOẠI LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA CHÚNG TRONG SỰ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
* Trên thế giới, từ lâu, các học giả đã dày công nghiên cứu về nội lực,
ngoại lực và tổng thể các nguồn lực cho sự phát triển của các quốc gia.
Adam Smith trong tác phẩm “Tìm hiểu bản chất và nguồn gốc của cải của quốc gia” đã chỉ ra nguồn lực chủ yếu của xã hội thời kỳ ông sống chính là vốn, sức lao động và đất đai, đây chính là cái gốc của sự tăng trưởng kinh tế. David Ricardo nghiên cứu nguồn lực dựa vào lợi thế so sánh và coi lợi thế so sánh chính là nguồn gốc thịnh vượng của ngoại thương, là nguyên nhân thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội [7, tr.7].
Trong khi nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc thành tựu của kinh tế chính trị học cổ điển Anh, C.Mác, trong các tác phẩm của mình, đã nhiều lần bàn luận về nguồn lực cho sự phát triển của CNTB như: giá trị hàng hóa sức lao động, tư bản (vốn), khoa học kỹ thuật… Trong đó ông nhấn mạnh và khẳng định giá trị của nguồn lực con người, con người là chủ thể sáng tạo nên lịch sử phát triển của loài người. Mác cũng chỉ rõ mối liên quan giữa tư bản (vốn) với việc sản sinh giá trị thặng dư của CNTB qua công thức T-H-T (tiền - hàng - tiền). Ngoài ra yếu tố khoa học, kỹ thuật - một bộ phận của lực lượng sản xuất tiến bộ cũng được ông xem xét như một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước tư bản. Đây là những quan điểm khoa học, làm cơ sở lý luận cho các nghiên cứu có liên quan sau này [7, tr.7].
Ngày nay, các nhà kinh tế học hiện đại phân tích các nguồn lực dựa trên sự đóng góp của chúng vào sự phát triển của nền kinh tế bao gồm những yếu tố vật chất đầu vào (như vốn, máy móc, thiết bị, vật tư, nguồn tài nguyên, sức lao động…) và một số yếu tố khác (tổ chức, chính sách, quản trị, công nghệ, bí quyết công nghệ)… Năm 2003, nhà kinh tế học người Mỹ, giáo sư Đại học Havard, ông Dani Rodrik cho rằng nguồn lực để phát triển bao hàm các yếu tố nội sinh, ngoại sinh và bán ngoại sinh của nền sản xuất. Trong đó, yếu tố nội sinh gồm vốn, lao động, khoa học kỹ thuật; yếu tố ngoại sinh gồm vị trí địa lý, khí hậu, địa hình, sinh thái, thái nguyên thiên nhiên; yếu tố bán ngoại sinh gồm thể chế và tác động của quá trình hội nhập [7, tr.7].
Hiện nay sự bùng nổ thông tin với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin đã khiến nhiều học giả cho rằng thông tin cũng là một nguồn lực to lớn cho sự phát triển. Tác giả cuốn sách “Thế giới phẳng”, Thomas Friedman còn ngụ ý rằng thế kỷ chúng ta đang sống là thế kỷ của thông tin, chịu sự chi phối bao trùm của thông tin. Nhưng trên thực tế, cho đến nay, chưa có một bằng chứng hay công trình nghiên cứu nào chứng tỏ một cách rõ ràng thông tin là một nguồn lực chi phối sự phát triển [7, tr.7].
* Ở Việt Nam, nhiều tác giả, nhiều công trình, bài viết cũng đã đi sâu tìm hiểu về vấn đề nguồn lực, động lực, phát huy nội lực, ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại… để xây dựng và phát triển đất nước.
Trước hết, các nhà khoa học đã đi sâu làm rõ quan niệm về nguồn lực, động lực, nội lực, ngoại lực và trò của chúng trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
- Đề tài KX.04.08/06-10 “Nguồn lực và động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020” của Viện Chiến lược phát triển, Bộ Khoa học và Công nghệ đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn lực, động lực phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế. Về mặt lý luận, công trình cung cấp những khái niệm căn bản về nguồn lực phát triển nhanh và bền vững ở nước ta, cách phân chia nguồn lực, các phương pháp huy động, sử dụng nguồn lực, kinh nghiệm của các nước trong việc huy động, sử dụng nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội [7].
Trong công trình này, các tác giả đã nêu lên khái niệm nguồn lực cho sự
phát triển đất nước hiện nay:
Nguồn lực phát triển là tất cả các yếu tố đầu vào đang sử dụng hoặc đang ở dạng dự trữ, dự phòng, sẵn sàng sử dụng phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh của xã hội theo những cách thức khác nhau nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cho xã hội đạt được những mục tiêu đề ra [7, tr.38].
Từ quan niệm đó, công trình cũng phân chia nguồn lực thành các dạng nguồn lực tiềm năng và các nguồn lực thực tế sử dụng, làm căn cứ để khảo sát, đánh giá mức độ đóng góp của các nguồn lực vào sự phát triển.
Công trình cũng cung cấp những bằng chứng khoa học từ thực tiễn để đánh giá đúng thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực cho sự phát triển kinh tế Việt Nam trong 20 năm đổi mới. Từ đó, đề tài nêu những định hướng huy động và sử dụng nguồn lực, hình thành và phát huy động lực phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020. Mặc dù vậy, trong công trình này, các tác giả mới chỉ ở chủ yếu đề cập tới khái niệm nguồn lực và đánh giá các nguồn lực cho sự phát triển đất nước ở góc độ kinh tế mà chưa có sự khái quát các nguồn lực cho sự phát triển bền vững đất nước nói chung.
- Cuốn sách “Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do GS.TSKH Lê Du Phong chủ biên [82] đã đề cập đến những vấn đề lý luận về nguồn lực, động lực phát triển bao gồm các khái niệm, vai trò và yêu cầu phân bổ nguồn lực, phát huy động lực trong phát triển; đồng thời chỉ rõ thực trạng sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; từ đó chỉ ra các quan điểm phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lực, sử dụng hợp lý nguồn lực và phát huy đầy đủ động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, cách thức phân chia nguồn lực, động lực, mối tương quan giữa các nguồn lực, đặc biệt là mối tương quan giữa huy động, sử dụng các nguồn lực với việc phát triển nhanh, bền vững được đề cập trong cuốn sách là những nội dung cần tiếp tục được đi sâu nghiên cứu và làm rõ.
- Tác giả Hồ Bá Thâm trong cuốn sách “Động lực và tạo động lực phát triển xã hội” [98] đã nêu những quan niệm cơ bản về động lực và tạo động lực phát triển xã hội hiện nay; vấn đề dân chủ hóa tạo môi trường và động lực phát triển con người và xã hội; vấn đề động lực và tạo động lực phát triển các thành phần kinh tế, phát triển văn hóa và đổi mới, hiện đại hóa hệ thống chính trị tạo động lực cho sự phát triển. Đây đều là những vấn đế lý luận hết sức cấp bách để phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
- GS.TS Trần Văn Thọ trong bài viết “Nội lực và ngoại lực trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam” [99] đã nêu ra những quan niệm khá đầy đủ về nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế của Việt Nam dưới góc độ kinh tế học. Ông đã phân tích những một cách xác đáng cấu trúc của nội lực và ngoại lực cho sự phát triển đất nước, đồng thời khảo sát việc phát huy nội lực và ngoại lực ở ngành công nghiệp may mặc, một ngành sản xuất và xuất khẩu quan trọng của Việt Nam để từ đó khái quát thực trạng và những thách thức đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực ở Việt Nam và đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ thể. Tuy nhiên, ông mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu nội lực, ngoại lực ở góc độ kinh tế mà chưa có sự đánh giá đầy đủ, khái quát về nội lực, ngoại lực cho sự phát triển đất nước trên các phương diện quan trọng khác như: chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh…
- GS.TS Hoàng Ngọc Hòa trong bài viết “Quá trình nhận thức của Đảng ta về phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, phát triển nền kinh tế tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, đã hệ thống hóa các quan điểm của Đảng về phát huy nội lực, ngoại lực xuyên suốt các thời kỳ; đồng thời chỉ ra các yêu cầu và thách thức của thời đại mới đối với việc phát huy nội lực, ngoại lực nói riêng và sự phát triển đất nước nói chung. Từ đó, ông đưa ra các giải pháp cơ bản nhất để phát huy nội lực, ngoại lực, hội nhập chủ động, tích cực với nền kinh tế thế giới để phát triển nhanh và bền vững, trong đó ông nhấn mạnh các giải pháp về xây dựng nền kinh tế tự chủ để bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo đảm uy tín, vị thế quốc gia trên trường quốc tế [40].
Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu, quản lý đồng thời làm rõ tính tất yếu phải phát huy nội lực, ngoại lực, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
- Xuyên suốt các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại, phát huy nội lực, ngoại lực và tổng thể các nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội của đất nước luôn được Đảng ta đặt ra như một trong những nội dung cơ bản nhất của chiến lược xây dựng và phát triển đất nước qua mỗi thời kỳ. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu 10 bài học cho sự phát triển đất nước, trong đó bài học thứ nhất chính là bài học về huy động nguồn lực: “huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho sự phát triển đất nước” [31, tr.95].
- Cuốn sách “Việt Nam 20 năm đổi mới” [33, tr.131] có bài viết “Những thành tựu về kinh tế xã hội trong 20 năm đổi mới (1986- 2005)” của tác giả Võ Hồng Phúc đã khái quát những thành tựu lớn của đất nước về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội từ khi tiến hành công cuộc đổi mới. Trong các kết luận chính của bài viết này, tác giả dành một thời lượng xứng đáng để nêu rõ tính tất yếu của việc phát huy nội lực quốc gia và thu hút ngoại lực để xây dựng và phát triển đất nước. Tác giả nhấn mạnh: “việc huy động nguồn lực từ các yếu tố bên trong của nền kinh tế là vô cùng quyết định để phát triển đất nước. Có phát huy được nội lực thì mới thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại lực”; “nguồn lực bên ngoài là quan trọng. Kết hợp tốt nội lực và ngoại lực sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng đất nước”.
- Bài trả lời phỏng vấn “Dân tộc và thời đại - thời cơ và thách thức” của Nguyên Thứ trưởng Bộ ngoại giao Trần Quang Cơ [16] đã làm sáng tỏ nội dung quan trọng cho quá trình phát triển đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế đó là phải kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Theo ông, sự thành công của các nước công nghiệp mới (NIC) là do các nước này đã biết kịp thời điều chỉnh hoặc cải cách lại cơ cấu chính sách kinh tế của mình trên cơ sở dự đoán đúng chiều hướng phát triển của nền kinh tế thế giới, nhạy bén nắm bắt ngay những cơ hội mới nảy sinh do những chuyển
biến trong tình hình quốc tế… Mọi tính toán đối nội, đối ngoại, mọi chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ và xã hội của họ đều nhất nhất phục tùng mục tiêu giành lấy vị trí có lợi nhất cho các nước đó trong cạnh tranh kinh tế quốc tế nhằm tận dụng được sức mạnh thời đại vào sự nghiệp phát triển kinh tế của nước mình. Đây cũng là những bài học kinh nghiệm quý báu cho nước ta trong quá trình phát triển.
- Nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyên Di Niên trong bài tham luận tại Đại hội lần thứ X của Đảng với tiêu đề “Phát huy cao độ nội lực, ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng thể để phát huy đất nước” đã chỉ ra rằng phát huy nội lực, khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là yêu cầu tất yếu để phát triển kinh tế xã hội đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Ông cũng những thuận lợi, khó khăn trong việc phát huy nội lực và ngoại lực để xây dựng đất nước, từ đó đề xuất các kiến nghị phát huy cao độ nội lực, nâng cao hiệu quả khai thác ngoại lực, không ngừng hội nhập kinh tế quốc tế để đi tắt, đón đầu thành tựu văn minh nhân loại phục vụ phát triển. Ông cũng lưu ý rằng điều tiên quyết và phải luôn chú trọng là phát huy nội lực trước tiên, còn ngoại lực có vai trò bổ sung, làm giàu cho nội lực, tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển [79].
Các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp một số lý luận cơ bản và các cơ sở khoa học được đúc rút từ thực tiễn về tính tất yếu của việc phát huy nội lực và ngoại lực, vai trò của phát huy nội lực, ngoại lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước qua các thời kỳ. Tuy nhiên, các công trình này cũng đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục phải làm sáng tỏ như: cách phân chia nguồn lực, vai trò của các nguồn lực đối với sự phát triển như thế nào? Làm thế nào để huy động được tối đa các loại nguồn lực cho sự phát triển? Mối quan hệ biện chứng giữa nội lực và ngoại lực được biểu hiện như thế nào? Làm thế nào để khai thác, sử dụng và phân bổ nguồn lực hiệu quả, hợp lý, đảm bảo phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững? Đó là gợi mở cho tác giả luận án này đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
* Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, các học giả, các nhà nghiên cứu đã tập trung tìm hiểu bản chất, chức năng, vai trò của nhà nước đối với sự phát triển.
Thế kỷ XVIII, Adam Smith (1723 - 1790) đưa ra lý thuyết “bàn tay vô hình”, phản đối sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế và cho rằng mọi hoạt động kinh tế cần diễn ra theo quy luật khách quan chứ không chịu sự chi phối của nhà nước. Mặc dù vậy, ông cũng phải thừa nhận rằng đôi khi, nhà nước cũng phải đảm nhiệm những nhiệm vụ kinh tế nhất định như: xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, giải quyết các công việc mà các nhà sản xuất kinh doanh không thể đảm đương được [Trích theo 19, tr.62-63]. Chính sự phủ nhận vai trò kinh tế của nhà nước và để nền kinh tế phát triển tự phát đã khiến kinh tế TBCN cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX lâm vào khủng hoảng, suy thoái.
Không đồng tình với các quan điểm của A. Smith, J.M Keynes (1884- 1946) đã đưa ra các quan điểm đề cao vai trò của nhà nước. Ông cho rằng nhà nước phải can thiệp vào thị trường, phải trực tiếp đứng trong guồng máy kinh tế, phải điều tiết cả kinh tế vĩ mô và vi mô. Các nước TBCN đã vận dụng lý thuyết này vào thực tiễn, tuy nhiên, khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp vẫn diễn ra. Các học giả phương Tây cho rằng nguyên nhân là do sự can thiệp quá mức của nhà nước tới nền kinh tế đã làm cho kinh tế không thể vận hành đúng quy luật khách quan vốn có của nó [47].
Phê phán quan điểm tuyệt đối hóa vai trò Nhà nước của Keynes, “chủ nghĩa tự do mới” nêu quan điểm cơ bản là thực hiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước ở mức độ nhất định. Những người theo “chủ nghĩa tự do mới” cho rằng nhà nước có vai trò tác động nhất định đến nền kinh tế bằng cách điều tiết nền kinh tế bằng chính sách tiền tệ; hoặc điều tiết mặt “cung” của nền kinh tế bằng cách xây dựng các chính sách kích thích kinh tế phát triển (chính sách tiết kiệm, chính sách thuế…); hoặc nhà nước có thể điều tiết nền kinh tế thông qua kế hoạch hóa định hướng sự phát triển [Trích theo 47].