hối lộ rồi tha, ông Đường do ít nhiều biết tiếng Pháp, chúng dùng làm thông ngôn được đi lại tự do. Lợi dụng thời cơ sơ hở đáp ôtô về Hà Nội, tìm đến nhà ông Nhã đã hồi cư về ở 43 cửa Bắc để ở lại giúp việc. Ông Nhã trông nom cửa hàng và các công việc (Năm 1951 làm nhà 130 Quan Thánh và các việc gia đình khác). Sau ông xin làm việc tại phòng thuế chợ Đồng Xuân vẫn ở cùng gia đình ông Nhã. Năm 1952 ông bị đau dạ dày nặng và ốm, điều trị tài nhà hàng ngày có anh Sửu con ông Tòng Tiến, làm y tá ở bệnh viện Bạch Mai đến tiêm giúp thuốc men. Sauông vào điều trị tại bệnh viện Bạch Mai, nhưng bệnh tình trầm trọng, không qua khỏi và ông đã từ tràn tại bệnh viện ngày 15 tháng 5 âm lịch (Nhâm Thìn). Thi hài ông được đưa về chôn cất tại nghĩa trang quê nhà (gò thứ 10 - thôn Vĩnh Khang), gia đình thương tiếc ông, đã mời thầy cúng về nhà lập đàn cúng lễ 3 ngày.
Bà Đường: Bùi Thị Thụ, sinh năm 1913
Bà Đường (vợ ông Đường, gọi theo tên chồng), tên khai sinh là Bùi Thị Thụ, người cùng làng Vĩnh Khang, con gái cụ Đoàn Gừng họ Bùi. Do tục lệ có tảo hôn, bà Đường về làm dâu khoảng 15 tuổi.
Xuất thân từ một gia đình có nề nếp gia phong thời xưa, bà Đường là một phụ nữ rất đảm đang chung thủy. Là dâu trưởng đồng thời là lao động chính trong gia đình cụ Lộc, bà rất chủ động lo toan mọi công việc và thực chất đã đảm đương quán xuyến mọi việc của gia đình thay cụ Lộc từ rất sớm (khoảng ngoài 30 tuổi). Trong lao động sản xuất việc đồng áng ở làng, không bao giờ thua chị kém em về năng suất, bà hay nói "thua trời một vạn, không bằng thua bạn một ly", hoặc "người ta làm được, mình cũng phải làm được". Bà đã dìu dắt các em và con gái thành người làm ăn chăm chỉ có kế hoạch. Làng xóm rất ca ngợi và quý mến Bà. Trong gia đình, đối xử với cha mẹ, anh trên em dưới không bao giờ có điều tiếng gì, bà thường nói "một sự nhịn là chín sự lành", "một lời siết cạnh, chín nghìn roi song", bà hay ví von và biết rất nhiều ca dao tục ngữ. Bà thuộc lòng truyện Kiều, Lục Vân Tiên, đọc vanh vách chứng tỏ bà rất thông minh, học truyền khẩu chứ cũng không biết chữ. Mãi đến 1939 - 1940 bà mới học chữ quốc ngữ tại nhà, vào buổi tối cùng với các em là bà Nháy, bà Tân, do ông Đài hướng dẫn bắt đầu từ A, B, C... nhưng cuối cùng, khi ông Đài ra Hà Nội học, bà cũng chỉ biết
đọc chậm đánh vần, và viết chưa thạo, vì buổi tối ăn cơm muộn, còn ít thời gian học tập. Bà còn biết đánh đàn bầu rất hay (đàn làm bằng một đoạn ống nứa, căng 1 sợi dây thép nhỏ), đêm khuya sáng trăng, có tiếng đàn bầu thánh thót của bà thêm vui nhà và các em rất thích nghe.
Trong quan hệ gia đình, bà luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người lúc khó khăn hoặc khi cần thiết như đã nuôi cháu Thanh con ông bà Sinh mấy năm, vừa là giúp đỡ anh chị đông con khó khăn kinh tế, vừa là giải quyết tình cảm tâm lý nuôi cháu cho vui vì bà Đường muộn con, (khéo các cụ nói: "như tre ấm búi", nuôi con sẽ đẻ con). Được khoảng ba bốn năm sau thì ông bà sinh đón cháu Thanh về. Năm 1961, bà nuôi cháu Chung con bà Tân để giúp đỡ bà Tân thu xếp công việc gia đình riêng. Năm 1965 - 1966, có chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hà Nội sơ tán, các cháu con ông Giáp, chị Đức về quê được bà trông nom giúp đỡ.
Đối với hàng xóm láng giềng, quan hệ đối xử bà rất trọng tình nghĩa, không bao giờ to tiếng với ai. Làm công tác hòa giải bà rất có uy tín giải quyết các vụ việc góp phần xây dựng tình đoàn kết xóm làng, được nhiều người quý mến.
Về gia đình riêng bà sinh con muộn. Người con trai đầu lòng tên là Đào Đức Đạt, ra đời được mấy tháng thì mất. Mãi đến tuổi 34 và 39 (sau hơn 10 năm) mới sinh thêm con gái là Đào Thị Hợi (sinh năm 1947) và con trai là Đào Văn Thìn (sinh năm 1952).
Ông Đường mất sớm (1952) lúc con trai mới được ít tháng, mẹ già lại đau ốm luôn các em nhỏ, một mình bà đã rất vững tay chèo, thờ chồng, nuôi con, trông nom vườn tược cho các anh và em đi kháng chiến ở xa (ông Nhạc, ông Đài đi bộ đội) đảm bảo sản xuất trồng trọt lương thực ngoài bờ sông. Mãi đến 1958, ông Đài ở bộ đội bắt đầu có chế độ lương, mới hàng tháng gửi cho bà thêm để góp phần trách nhiệm nuôi dưỡng cụ Lộc, đồng thời sức lao động gia đình được tăng hơn, (thêm bà Đài mới cưới, các em lớn dần tuổi). Bà hết lòng chăm sóc con cái, nuôi ăn học đến nơi đến chốn và trưởng thành như ngày nay. Bà là chủ gia đình thật sự thay cụ Lộc được các cụ tin cậy và các anh em trong gia đình quý mến.
Có thể bạn quan tâm!
- Nhà có gia phả như Nước có quốc sử - 5
- Nhà có gia phả như Nước có quốc sử - 6
- Nhà có gia phả như Nước có quốc sử - 7
- Nhà có gia phả như Nước có quốc sử - 9
- Nhà có gia phả như Nước có quốc sử - 10
- Nhà có gia phả như Nước có quốc sử - 11
Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.
Về già, hết tuổi lao động, bà chuyển khẩu ra Hà Nội ở với vợ chồng anh Thìn, chị Quý tại khu tập thể trường Đại học Thương mại Hà Nội. Từ 1990, bà lâm bệnh, được các con chăm sóc tận tình, chu đáo, nhưng không qua khỏi và tạ thế ngày 22 tháng 6 năm Nhâm thân (1992), được chôn cất ở nghĩa trang xã Mai Dịch, huyện Từ Liêm. Đến 1996, cải táng, hài cốt bà được đưa về an táng tại nghĩa trang quê nhà gò thứ 10, thôn Vĩnh Khang xã Vân Nam.
9. Đào Thị Nháy (1922 - 2002)
Bà Đào Thị Nháy, hiệu diệu Cao - thường gọi theo tên chồng là bà Chú. Bà là con thứ hai của cụ Thư và cụ Lộc, sinh năm Nhâm Tuất (1922) và mất ngày 12 tháng chạp năm Tân Tỵ, tức ngày 24-01-2002.
Lúc nhỏ ở với cụ Lộc, đến khoảng 10 - 12 tuổi sang ở bên nhà cụ Thư và cụ Điều, bà không được đi học ở trường, mà chỉ học tối ở nhà do anh em hướng dẫn (ông Đường và ông Đài) biết đọc, biết viết nhưng chưa thạo.
Bà ở với cụ Điều để làm việc trong gia đình giúp công việc chăn nuôi bò và lợn như cắt cỏ, hái rau v.v... dần dần lớn lên tham gia lao động chính ngoài bãi trồng trọt và thu hoạch ngô khoai. Năm 17 tuổi bà lấy chồng, người cùng quê ở làng Vĩnh Thuận.
Ông tên là Hoàng Văn Chú làm hương sư dạy học sau ra Hà Nội làm nhân viên đánh máy chữ Sổ Toàn Quyền cũ.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông công tác ở Bộ Tư Pháp và làm việc ở ngành tư Pháp cho đến ngày về hưu (là chuyên viên của Tòa án Nhân dân tối cao năm 1978).
Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hai ông bà sinh được 6 người con:
1. Hoàng Thị Lan, sinh năm 1945, đảng viên: nguyên là thẩm phán Tòa án Nhân dân Hà Nội, nghỉ hưu, chồng tên là Trịnh, đã chết.
Có 1 con gái tên là Lan Ca đang học trường Trung cấp quân y, Sơn Tây.
2. Hoàng Thị Lý, nguyên là thư ký Tòa án Nhân dân Sơn Tây, đã chết năm 1998. Chồng là Đinh Văn Ninh, hiện đang công tác ở Bộ Công an, có hai con: Đinh Văn Hải, công an quận Ba Đình, và Đinh Thị Huyền công tác ở Bộ Thủy sản.
3. Hoàng Đức Thắng, sinh năm 1955, đảng viên, thẩm phán Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, vợ là Xuân, y sĩ ở bệnh viện bảo vệ bà mẹ trẻ em, Hà Nội, có 1 con trai.
4. Hoàng Đức Thịnh, sinh năm 1959, đang ở nước ngoài, Cộng hòa Liên bang Đức, Vợ Nguyễn Thị Vân, có 2 con.
5. Hoàng Đức Thọ, sinh năm 1961, đảng viên, công an quận Hoàn Kiếm, vợ Nguyễn Thị Liên, có 1 con.
6. Hoàng Đức Dương, sinh năm 1962, lái xe Tòa án nhân dân Hà Nội, vợ Nguyễn Thị Hường, giáo viên tiểu học Từ Liêm, có 1 con trai.
Bà Chú là một phụ nữ nông dân đảm đang, nhà chồng nghèo, bố mẹ chồng già yếu, chồng công tác xa, một mình bà ở nhà vừa lo toan việc gia đình vừa sản xuất nông nghiệp bảo đảm nuôi dạy con cái trưởng thành. Năm 1990 bà chuyển khẩu ra Hà Nội ở cùng chồng và các con. Số nhà 34, cụm 14, phường Cống Vị.
Tuổi già sức yếu, bị bệnh huyết áp cao lâu ngày, bà đã tạ thế ngày 24 tháng 1 năm 2002 tức ngày 12 tháng chạp năm Tân Tỵ, thọ 81 tuổi.
10. Đào Xuân Đài
Ông Đào Xuân Đài là con thứ ba của cụ Thư và cụ Lộc, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1927 (Đinh Mão), đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1950, thiếu tá quân đội, nghỉ hưu năm 1978.
Chỗ ở hiện nay: Số nhà 22Đ ngõ 3, phố Lê Lợi, thị xã Sơn Tây.
Vợ là: Đặng Thị Rói, sinh năm 1932 (tuổi Nhâm Thân), đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1950, nghỉ hưu năm 1987.
Mất ngày 5 tháng 8 năm Giáp Tuất (10-9-1994), phần mộ: gò thứ 10, thôn Vĩnh Khang, xã Vân Nam. Ông bà sinh được 4 người con:
1. Đào Thị Minh Nguyệt SN 21-1-1960
2. Đào Xuân Chiến SN 18-4-1968
3. Đào Thị Minh Loan SN 31-7-1970
4. Đào Thị Minh Phương SN 20-5-1975
Ông Đài thuở nhỏ được cụ Thư và cụ Điều nuôi đi học trường tiểu học Vĩnh Thọ, thi đỗ tốt nghiệp năm 1941 ông ra Hà Nội học tiếp trung học. Năm đầu học ở Lycéum Gia Long, năm sau ông thi đỗ vào học trường Đỗ Hữu Vy ở phố cửa Bắc (sau cách mạng gọi là Trường Trung học Nguyễn Trãi).
Kháng chiến toàn quốc 12-1946, ông về quê tham gia công tác địa phương làm trưởng ban tuyên truyền xã Vân Cốc, kiêm bí thư và thường trực ủy ban kháng chiến liên xã Vân Cốc - Đốc Ngữ và chấp hành huyện đoàn thanh niên Phúc Thọ. Tháng 7- 1947 ông được cử đi học lớp sư phạm cấp tốc 3 tháng ở Sở Giáo dục Liên khu 3 và được Bộ Giáo dục bổ nhiệm hiệu trưởng trường Tiểu học Liễn Châu (Quảng Oai), đến khóa học 1948 - 1949 thuyên chuyển về làm hiệu trưởng trường Trích Giang huyện Phúc Thọ.
Năm 1949, giặc Pháp chiếm đóng Sơn Tây, ông nhập ngũ theo học lớp cán bộ không quân khóa 1 của Bộ Tổng Tham mưu, học xong được phân công làm công tác theo rõi khí tượng thuộc Ban Nghiên cứu không quân. Năm 1951 ông được cử đi thành lập đại đội pháo cao xạ 37 ly đầu tiên của quân đội ta ở Thủy Khẩu, Trung Quốc, và giữ chức trung đội trưởng chiến đấu bảo vệ cầu biên giới Thủy khẩu Cao Bằng. Ông ở binh chủng pháo phòng không này suốt cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cho đến ngày nghỉ hưu (1978), hoạt động trên các chiến trường Điện Biên Phủ, Sơn La, Tây Bắc, rồi vào quân khu 4, chiến đấu với máy bay Mỹ bảo vệ các trọng điểm giao thông trên các tuyến đường từ Nghệ An, Hà tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh đến biên giới Việt Lào.
Ông đã giữ các chức vụ chỉ huy chiến đấu từ cấp trung đội đến cấp trung đoàn thuộc các đơn vị phòng không của Sư đoàn 316 và Bộ Tư Lệnh phòng không quân khu 4.
Ông là người có tinh thần luôn luôn phấn đấu khắc phục khó khăn và có trách nhiệm cao. Thuở học sinh, được ông Đường giúp đỡ nuôi ăn học ở Hà Nội, ông chịu khó chăm chỉ học khá, được xét miễn giảm học phí 100% suốt cả khóa học 4 năm và còn được cấp thêm giấy bút hàng tháng đủ dùng (xét diện con nhà nghèo học khá). Sau đảo chính Nhật - Pháp tháng 3-1945 ông Đường mất việc làm ở Sở Đốc Lý Hà Nội, ông Đài tham gia làm kẹo với gia đình ông Nhã để được ăn học tiếp tục cho đến tháng 12-1946 đang học năm thứ nhất chuyên ban B, Tú Tài, ông thôi học về quê kháng chiến.
Sớm giác ngộ cách mạng ông tham gia học sinh cứu quốc từ 2-1945 (trong mặt trận Việt Minh; do bạn Dương Đình Gi cùng lớp giới thiệu kết nạp) ông đã thực hiện tốt những việc được phân công, giữ được bí mật, không sợ nguy hiểm, như lần phá rối cuộc mít tinh công chức của Chính phủ cũ ngày 17-8-1945 ở trước cửa Nhà hát lớn Hà Nội, rồi biểu tình tuần hành thị uy trước phủ Toàn quyền cũ.
Là bộ đội phòng không phải chiến đấu liên tục không kể ngày đêm, suốt cả thời kỳ Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc (trọng yếu là địa bàn quân khu 4) ông có tinh thần chịu đựng gian khổ ác liệt hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao (có 4 lần được danh hiệu chiến sĩ thi đua). ông bị thương trong trận đánh trả máy bay Mỹ ném bom bắn phá cầu cấm Nghệ An hồi 19 giờ ngày 26-1-1968, vết thương nhẹ, được xếp hạng thương tật vĩnh viễn 4/4 (hiện còn mảnh đạn tên lửa cắm dưới cằm sát đốt cổ không mổ lấy ra vì chạm động mạch cảnh).
Ông nghỉ hưu từ tháng 8-1978 về Sơn Tây, cuộc sống gia đình có khó khăn: mẹ già, bốn con nhỏ đi học. Lương hưu cấp thiếu tá của ông cộng với lương đương chức thiếu úy của Bà không đủ đảm bảo, ông đã ra trông giữ xe đạp ở chợ Nghệ từ tháng 11- 1978 đến năm 2000 để có thêm thu nhập.
Ngoài công việc gia đình ông còn tích cực tham gia các công tác ở địa phương như làm bí thư chi bộ khu phố Hậu Ninh 12 năm (từ 1980 đến 1992) đồng thời được bầu vào thường vụ Đảng ủy phường Lê Lợi phụ trách chủ nhiệm UBKT từ 1982 đến
1994 ông có nhiều đóng góp trong việc xây dựng địa phương như việc làm đường điện, mở rộng đường đi ngõ 3 khi ông làm bí thư chi bộ lãnh đạo khu phố, được nhân dân tín nhiệm và quý mến.
Qua hai cuộc kháng chiến, ông đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng:
- 2 huy hiệu 40 năm và 50 năm tuổi Đảng.
- 1 huân chương kháng chiến hạng nhất.
- 1 huân chương chiến công hạng nhất.
- 1 huân chương chiến thắng hạng 3.
- 3 huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng 1, 2, 3.
- 1 huy cương quân kỳ quyết thắng.
- Và 10 bằng, giấy khen cấp sư đoàn và quân khu.
Vợ: Đặng Thị Rói
Bà Đặng Thị Rói sinh tháng 10-1932 là con gái thứ hai của cụ Đặng Vũ Rã và Bùi Thị Chinh người cùng thôn Vĩnh Khang.
Thuở nhỏ học bình dân học vụ, khi đi công tác được học bổ túc văn hóa đến lớp
6/10.
Từ 1945 đến 1960 công tác ở xã, đoàn thể phụ nữ thôn đội trưởng du kích thôn
Vĩnh Khang, xã đội phó xã Vân Nam, được kết nạp vào Đảng tháng 5-1950. Từ 1960 đến 1966 được tuyển làm công nhân nhà máy sắn chuối Sơn Tây (sau gọi là Xí nghiệp Rau quả xuất khẩu).
Từ 1966 - 1980 nhập ngũ làm cán bộ chính sách của Ban chỉ huy quân sự thị xã Sơn Tây (hưởng lương thiếu úy chuyên nghiệp).
Từ 1980 đến 1987 chuyên ngành trở lại Xí nghiệp Rau quả xuất khẩu Sơn Tây rồi nghỉ hưu.Trong kháng chiến chống Pháp, bà Rói phải hoạt động bí mật ở quê, phụ trách du kích chiến đấu chống giặc khủng bố càn quét, bảo vệ nhân dân, rất gian khổ khó khăn. 7 lần bị địch bắt tra tấn dã man, bà chịu đựng, bất khuất, không để lộ lực
lượng, được bà con thôn xóm che giấu, đấu tranh hợp pháp buộc địch phải trả lại tự do. Lịch sử đấu tranh của Đảng bộ xã Vân Cốc có ghi thành tích của hai chị em bà (Xuân và Rói) trong các trận đánh chống càn, mở khu du kích năm 1953. Bà được tuyên dương chiến sĩ thi đua trong lực lượng vũ trang của tỉnh Sơn Tây và được Bộ Quốc phòng tặng thưởng huân chương chiến công hạng 3.
Từ năm 1960 được chuyển đi làm công nhân nhà máy chuối rồi vào bộ đội làm cán sự chính sách, ở cương vị nào bà cũng hoàn thành tốt mọi công việc, liên tục được công nhận lao động tiền tiến.
Về gia đình riêng: chồng (ông Đài) là bộ đội công tác và chiến đấu ở xa cho đến ngày về nghỉ hưu, một mình bà lo toan mọi công việc gia đình và xã hội, vừa công tác chiến đấu, vừa nuôi dạy con cái ăn học. Bà hết sức chắt chiu kế hoạch tằn tiện để xây dựng tổ ấn gia đình. Năm 1978 bà được cấp đất làm nhà cũng vừa lúc ông Đài về nghỉ hưu, ông vay được của ngân hàng 1000đ trả dần 10 năm, và vay của anh em trong gia đình, bè bạn giúp đỡ, ông bà làm được ngôi nhà cấp 4 ở hiện nay tại ngõ 3 phố Lê Lợi.
Năm 1987 bà nghỉ hưu được ít năm thì sức khỏe giảm sút - có bệnh tim mạch và huyết áp cao. Bà đã tạ thế hồi 18 giờ ngày 5-8 Giáp Tuất (10-9-1994) hưởng thọ 63 tuổi an táng tại nghĩa trang đồi Siu Sơn Tây. Đến 1999, cải cách, hài cốt chuyển về nghĩa trang thôn Vĩnh Khang (gò thứ 10).
Qua hai cuộc kháng chiến bà được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: 1 huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.
1 huân chương kháng chiến hạng nhất. 1 huân chương chiến công hạng 3.
2 huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng 2, 3.
1 huy chương kháng chiến hạng nhất và nhiều bằng khen giấy khen cấp quân khu và tỉnh.
11. Đào Thị Tân