Nhà có gia phả như Nước có quốc sử - 11

Năm 1965 đi làm công nhân của Ty kiến trúc tỉnh Hà Tây. Quá trình công tác, điều về trạm sản xuất vật liệu kiến thiết thuộc Ty xây dựng Hà Tây. Cuối cùng về làm công nhân bốc xếp hàng ở cảng Sơn Tây, rồi nghỉ hưu năm 1987.

Chồng: Nguyễn Văn Tôn, sinh năm 1915 quê quán xã Mỹ Tài, huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định.

Tập kết ra Bắc 1954, công tác lao động làm thủy lợi Thái Bình một thời gian, về tỉnh Hà Tây làm thủ kho cát sỏi, trạm phó cung tiêu của Ty xây dựng Hà Tây làm thủ kho cát sỏi, trạm phó cung tiêu của Ty xây dựng Hà Tây, nghỉ hưu năm 1977.

Ông Bà Ngọ Tôn nhà nghèo, lương thấp, hưu trí rất chịu khó cần cù lao động làm thuê, mua được nhà ở và nuôi con ăn học trưởng thành.

Ông Tôn mất năm 1985 phần mộ ở nghĩa trang Linh Chiểu xã Viên Sơn.


6. Đào Thị Bính


Bà Đào Thị Bính sinh năm 1946 là con gái thứ 6 của ông bà Mô và bà Cún.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

Thuở nhỏ học xong tiểu học đi thanh niên xung phong, về nhận công tác ở Tổng cục đường sắt. Sau cùng công tác: Văn phòng ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa. Hiện nay nghỉ hưu, số nhà 5 phố Lạc Long Quân, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Chồng: Trần Văn Khánh, trung tá công an tỉnh Khánh Hòa, đã mất năm 1986.

Ông bà sinh được 3 người con:

Nhà có gia phả như Nước có quốc sử - 11


1. Trần Ngọc ánh SN 1972


2. Trần ánh Hồng SN 1975


3. Trần Thị Thu Hương SN 1978.


7. Đào Thị Tý


Bà Đào Thị Tý, sinh năm 1948 là con gái thứ 7 của ông Mô và bà Cún.

- Tuổi nhỏ được đi học hết trung học, rồi học sư phạm, được bổ nhiệm giáo viên trường Tiểu học Vân Nam, huyện Phúc Thọ, Hà Tây, hiện nay nghỉ hưu ở quê: thôn Vĩnh Khang mua lại vườn và nhà của bà Đường cũ.

Chồng: Đặng Văn Cao - người làng Vĩnh Phúc xã Vân Phúc, giáo viên tiểu học, nghỉ hưu, Ông bà sinh được 4 người con (2 trai, 2 gái).

Đặng Anh Văn Đặng Văn Chương Đặng Thị Thủy Đặng Thị Ngân.

8. Đào Thị Dần


Bà Đào Thị Dần, sinh năm 1980, là con gái thứ 8 của ông Mô và bà Cún.

Học hết cấp 2 ở nhà làm nông nghiệp. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Chồng: Đặng Văn Mây, người cùng làng cán bộ phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện Phúc Thọ và sở TBXH tỉnh Hà Tây đã nghỉ hưu.

Ông bà sinh được 4 người con trai:


1. Đặng Văn Phương


2. Đặng Văn Phi (đã mất)


3. Đặng Văn Chung, Sĩ quan kỹ thuật, Sư 361 tên lửa phòng không, Hà

Nội.


4. Đặng Văn Dũng.

III. Các con của ông Nhã và bà Xuân


1. Đào Viết Phú



Xuân.

Ông Đào Viết Phú, sinh năm 1939 (Kỷ Mão) là con trưởng của ông Nhã và bà


Vợ: Bùi Thị Mai, sinh năm 1949 (Kỷ Tỵ), quê ở Hà Nội. Ông bà sinh được 2 người con trai:

1.Đào Viết Cường SN 1976


2. Đào Viết Anh SN 1980.


Ông Phú tuổi nhỏ đi học ở các trường Puginer và Albert Saraut. Đến 1956 học

trường trung học Chu Văn An, Hà Nội.


Từ 1960 đến 1964 sinh viên trường Đại học Bách Khoa (sinh viên khóa 5, khoa

Hóa).


1964 tốt nghiệp kỹ sư hóa chất, bằng khá. Từ 1964 đến 1965 là cán bộ kỹ thuật

cục chế biến thuộc Tổng cục Lâm nghiệp.


Từ 1966 đến 2000: là nghiên cứu viên chính viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, và là thành viên Hội đồng Khoa học kỹ thuật từ 1967 đến 2001. Đã làm chủ nhiệm 15 đề tài cấp Nhà nước và cấp bộ. Hai đề tài: Mũ Cát + Keophenol tạp và keo dịch đen đã đưa vào áp dụng thực tế sản xuất có giá trị lớn về KHKT, kinh tế và giảm ô nhiễm môi trường. Đã được cấp bằng khen và thưởng tiền.

Chức vụ công tác chính quyền: phó phòng nghiên cứu Hóa lâm sản, phó giám đốc trung tâm Nghiên cứu đặc sản.

Năm 1994, tham dự Hội nghị tre nứa quốc tế ở Đài Loan và Hội nghị về gỗ và đặc sản ở Thái Lan năm 1996.

Năm 1996 bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài sử dụng dịch đen phế thải của các nhà máy giấy làm chất kết dính cho ván nhân tạo. Năm 1997 chuyên gia tư vấn cho dự án lâm nghiệp, Phần Lan, Việt Nam.

Năm 1998: điều phối viên dự án "Sử dụng bền vững lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam do Chính phủ Hà Lan tài trợ.

Đầu năm 2000 làm chuyên gia cho dự án lâm nghiệp Hà Lan tại Lào đến tháng 3-2000 bị ốm phải về nước chữa bệnh.

Năm 2001, ông Phú về nghỉ hưu và hiện tại làm phó giám đốc trung tâm tài nguyên và môi trường sinh thái (tổ chức phi Chính phủ). Suốt quá trình công tác hơn 36 năm về lâm nghiệp, ông đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và cống hiến tất cả tài năng cho sự nghiệp nghiên cứu Hóa Lâm sản Việt Nam. Ông đã được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng 3.

- Huy chương vì sự nghiệp lâm nghiệp.


- Huy chương vì sự nghiệp khoa học công nghệ.


- Nhiều bằng khen và giấy khen của Bộ và Viện.


Vợ: Bùi Thị Mai


Bà Bùi Thị Mai, sinh năm 1949 (Kỷ Tỵ), tại Hà Nội. Sinh viên Đại học Y Khoa Hà Nội, khóa 1967 - 1973, và tốt nghiệp bác sĩ cuối năm 1973.

- 1974 - 1975 công tác tại bệnh viện Bộ Cơ khí luyện kim.


- Từ cuối 1975 đến nay công tác tại viện Lao và bệnh phổi Trung ương.


Năm 1986 - 1988 đi học tại Cộng hòa Liên bang Đức 2 năm. Hiện là bác sĩ chuyên khoa cấp 2. Quá trình công tác Bà đã được tặng: Huy chương vì sự nghiệp khoa học công nghệ.

Nơi ở gia đình hiện nay: Số 306, nhà N.Ơ.8 khu Bán Đảo: Hồ Linh Đàm, quận Thanh Trì, Hà Nội.


2. Đào Thị Nhung (1942 - 1986)

Bà Đào Thị Nhung, sinh năm 1942, là con thứ 2 của ông Nhã và bà Xuân, mất năm 1986, hưởng dương 45 tuổi.

Phần mộ: tại nghĩa trang gò thứ 10, thôn Vĩnh Khang, xã Vân Nam, huyện Phúc Thọ, Hà Tây.

Chồng: Hoàng ái, sinh 1935, nghỉ hưu, có nhà riêng tại khu Định Công, Hà Nội, ông bà sinh được 2 người con:

1. Hoàng Anh, SN 1976 cử nhân Đại học Thương Mại.


2. Hoàng Hải Yến, SN 1978, cử nhân ngành Ngoại giao, trường Đại học Đông

đô.


Bà Nhung tuổi nhỏ là một học sinh ngoan, chăm chỉ và học giỏi. Năm 1978 tốt nghiệp kỹ sư cơ khí trường Đại học Bách Khoa.

Bà nguyên là giáo viên kỹ thuật trường Trung học Công nghiệp Hà Nội, nhiều

năm được công nhận giáo viên dạy giỏi được UBND thành phố Hà Nội cấp bằng khen và được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng 1. Năm 1986 mắc bệnh hiểm nghèo, Bà từ trần, được chôn cất ở nghĩa trang Văn Điển. Sau cải táng, đưa về quê, đặt mộ phần tại gò thứ 10 thôn Vĩnh Khang, xã Vân Nam, cạnh mộ phần của bố là Đào Viết Nhã.

Chồng: Hoàng ái, sinh 1935, quê ở Hà Tĩnh , nguyên chuyên viên, công tác tại văn phòng đối ngoại, Phủ thủ tướng nhiều năm, nay đã nghỉ hưu. Sau khi vợ mất, ông ái đã nuôi dạy hai con trưởng thành, đều tốt nghiệp đại học cả.


3. Đào Thị Hồng (1944 - 1946)


Đào Thị Hồng là con gái thứ 3 của ông Nhã và bà Xuân, sinh năm 1944. Khi 3 tuổi bị bệnh đậu mùa, Đào Thị Hồng đã không qua khỏi và mất năm 1946.

Hiện nay không còn phần mộ.

4. Đào Thị Tuyết


Bà Đào Thị Tuyết, sinh năm 1948 (Mậu Tý) là con thứ 4 của ông Nhã và bà Xuân. Tuổi nhỏ ham học và chăm chỉ làm việc nội trợ gia đình. Tốt nghiệp kỹ sư thực phẩm của Trường Đại học Bách Khoa.

Công tác tại Tổng Công ty lương thực, thực phẩm, Hà Nội.


Là một cán bộ có trách nhiệm công tác tốt. Có thời kỳ làm phó phòng kỹ thuật Xí nghiệp bột Hoàng Mai, và một năm được bầu là chiến sĩ thi đua của ngành.

Hiện nay bà Tuyết và em gái là Dung cùng ở với mẹ (bà Xuân) tại căn hộ nhà số 19 (3 tầng) ngõ 64 phố Phó Đức Chính, Hà Nội, hai chị em trực tiếp chăm sóc mẹ tuổi già (ngoài 80) có bệnh mãn tính.


5. Đào Viết Thọ


Ông Đào Viết Thọ, sinh năm 1951 (Tân Mão) là con thứ 5 của ông Nhã và bà Xuân. Tốt nghiệp Đại học Kiến trúc Việt Nam, là kiến trúc sư công tác ở Bộ Xây dựng, trực tiếp tham gia các dự án và các công trình xây dựng của Bộ Giao thông. Hiện nay công tác tại một công ty thuộc Tổng Công ty Xây dựng sông Đà (phó giám đốc Công ty xây lắp 96 thuộc Tổng Công ty xây dựng sông Đà).

Vợ: Phạm Thị Kim Chung, người Hà Nội (quận Hai Bà Trưng), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, là giáo viên dạy giỏi cấp thành phố.

Hiện là giáo viên dạy trường PTCS Nguyễn Du, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đã mất tháng 01-2003 (do bệnh phù thận).

Hai ông bà sinh được 1 con trai:


1. Đào Nhật Tú SN 1979, đã tốt nghiệp Đại học Kiến trúc.


6. Đào Thị Nga


Bà Đào Thị nga, sinh năm 1953 là con thứ 6 của ông Nhã và bà Xuân. Tốt nghiệp trung cấp cơ điện. Tốt nghiệp cử nhân Luật của Trường Đại học Tổng hợp. Hiện công tác tại Cục Hải quan Hà Nội.

Chồng: Nguyễn Thành Hưng, cử nhân Luật, trung tá công an quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

Nhà ở hiện nay C4B, phường Thành Công, quận Ba Đình, Hà Nội.


Ông bà sinh được một con gái: Nguyễn Quỳnh Hương, sinh năm 1981 đang là sinh viên Trường Đại học Phương Đông, Hà Nội.


7. Đào Bích Liên


Bà Đào Thị Bích Liên, sinh năm 1956, là con thứ 7 của ông Nhã và bà Xuân.

Tốt nghiệp Đại học Kiến trúc, hiện là cán bộ công tác tại Tổng cục đường sắt.


Chồng: Đồng Quang Tuấn, người quê ở Bắc Giang, Kỹ sư đại học Kiến trúc; hiện là cán bộ xây dựng của Tổng cục đường sắt.

Ông bà sinh được 2 con:


1. Đồng Quang Anh SN 1982 (sinh viên)


2. Đồng Vân Anh SN 1984 (sinh viên).


Nhà ở hiện nay số 8, phố 353 đường Giải Phóng, phường Giáp Bát, Quận Thanh Xuân, Hà Nội.


8. Đào Thị Dung


Bà Đào Thị Dung, sinh năm 1960, là con thứ 8 của ông Nhã và bà Xuân.

Tuổi nhỏ là một học sinh chăm ngoan. Năm 1978 trúng tuyển vào trường Đại học Sư phạm Ngoại Ngữ, học Khoa Trung Văn. Sau mấy tháng học, xin chuyển xuống trường quản lý kinh tế Hà Nội. Đã tốt nghiệp trung cấp quản lý kinh tế và công tác tại Công ty ăn uống quận Đống Đa, được một thời gian về nghỉ theo "176" (giảm biên chế).

Về sức khỏe: thị lực kém (phải mổ mắt), đồng thời có 1 phần ảnh hưởng bệnh tim, không lao động nặng được.

Hiện nay cùng mẹ và chị gái Đào Thị Tuyết ở nhà căn hộ (3 tầng) ngõ 64 phố Phó Đức Chính, quận Ba Đình, Hà Nội.

Xem tất cả 143 trang.

Ngày đăng: 15/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí