trường, đổi mới công nghệ, hỗ trợ vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, cung cấp thông tin. Song song đó, cần cải cách chính sách thuế theo hướng tăng nguồn thu từ phát triển kinh tế, chuyển nguồn thu chủ yếu từ thuế gián thu sang thuế trực thu. Bảo đảm nuôi dưỡng nguồn thu công bằng, thống nhất, đơn giản và thuận tiện cho mọi hoạt động chủ thể kinh doanh. Áp dụng rộng rãi cơ chế “tự khai , tự nộp, và tự chịu trách nhiệm” đối với mọi chủ thể kinh doanh.
Tiếp tục đổi mới chính sách tiền tệ và hoạt động của Ngân hàng nhà nước. Sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất, tỷ giá hối đoái để đảm bảo giá trị đồng tiền, kiểm soát được lạm phát, bảo đảm an ninh tài chính cho hệ thống tài chính, ngân hàng và các tổ chức tín dụng trước các cú sốc tỷ giá và lãi suất đến từ bên ngoài.
Nhà nước tiếp tục tăng cường và tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, bảo đảm kết hợp tăng trưởng kinh tế tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện phát triển bền vững. Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ và phát triển chính thức trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo, tăng cường thể chế và bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, nhà nước cần mở rộng cho các tổ chức kinh tế đầu tư ra nước ngoài, tập trung vào các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và cung cấp nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước.
Về việc hoàn thiện môi trường TM, và hướng tới hoàn thành mục tiêu phát triển ngoại thương giai đoạn 2006- 2010, từ thực tế hoạt động ngoại thương một năm qua có thể đưa ra một số kiến nghị sau:
- Giảm chi phí giao dịch, kinh doanh cho các doanh nghiệp ngoại thương thông qua:
+) Triển khai xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu, đặc biệt là trong 1 số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt may, giày dép… nhằm giảm
khối lượng nhập khẩu từ đó giảm chi phí NK cho doanh nghiệp, đồng thời tận dụng được nguồn tài nguyên trong nước.
+) Xây dựng và thực hiện chương trình hiện đại hoá và cải cách thủ tục hải quan, lộ trình rút ngắn thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá XNK.
+) Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính đi đôi với việc tăng cường hợp tác phối hợp giải quyết vụ việc liên quan giữa các bộ ngành.
+) Sớm triển khai kí kết các thoả thuận song phương và công nhận lẫn nhau về kiểm dịch thực vật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là các thị trường XK trọng điểm như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Australia, Newziland… Giải pháp này nhằm tránh cho doanh nghiệp gặp phải rào cản phi thuế, khi xuất khẩu sang một thị trường nào đó.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Cấu Hàng Của Việt Nam Phù Hợp Với Thị Trường
- Quan Điểm Của Đảng Và Nhà Nước Về Phát Triển Ngoại Thương Việt Nam
- Chiến Lược Phát Triển Ngoại Thương Việt Nam Thời Kì 2001-2010, Tầm Nhìn 2020
- Ngoại thương Việt Nam nhìn lại 1 năm sau khi gia nhập WTO và những giải pháp kiến nghị trong thời gian tới - 13
- Ngoại thương Việt Nam nhìn lại 1 năm sau khi gia nhập WTO và những giải pháp kiến nghị trong thời gian tới - 14
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phục vu XK
+) Thành lập quỹ bảo hiểm XK. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các hình thức hỗ trợ trực tiếp cho XK như thưởng XK bị bãi bỏ. Do đó cần sử dụng nguồn vốn này và bổ sung thêm để thành lập quĩ hỗ trợ đầu tư, nhằm nghiên cứu cải tạo, đổi mới chuyển giao công nghệ, nâng cao tay nghề, cho công nhân sản xuất hàng XK.
+) Điều tiết tỉ giá hối đoái, lạm phát. Vai trò quản lý vĩ mô là phải điều tiết sự thay đổi tỷ giá hợp lí sao cho vừa thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, vừa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hướng tới khuyến khích XK, hạn chế NK phục vụ cho việc tăng trưởng kinh tế mà vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lí.
- Xây dựng các đề án XNK cho từng mặt hàng, từng địa bàn. Đặc biệt chú ý phát triển những mặt hàng mới, mặt hàng có điều kiện sản xuất không phụ thuộc nhiều vào sự biến động của thị trường như sản phẩm cơ khí, dây cáp điện, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ… Đồng thời rà soát lại cơ chế chính sách khuyến khích sản xuất xuất khẩu đối với những mặt hàng truyền thống
trọng điểm như hàng nông lâm thuỷ sản, dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ… để có những điều chỉnh phù hợp hỗ trợ cho sản xuất và XK. Tiếp tục coi các thị trường ASEAN, Nhật, Hoa Kỳ, EU, TQ và các nước có chung đường biên giới là những thị trường trọng điểm.
- Đối với những hiệp hội ngành hàng: Nâng cao vai trò của các hiệp hội trong việc cung cấp thông tin, thống nhất thực hiện các chiến lược phát triển sản xuất, liên kết trong kinh doanh, đàm phán ký kết hợp đồng, tránh để khách hàng lợi dụng ép giá gây thiệt hại chung. Cần có cơ chế phối hợp giữa các bộ ngành quản lí và các hiệp hội ngành hàng để tạo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành.
3.3.1.2. Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến thương mại ( XTTM)
Có thể khẳng định hoạt động XTTM trong thời gian vừa qua đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định của ngành ngoại thương Việt Nam. Trong thời gian tới, chúng ta cần đẩy mạnh hoạt động XTTM để kích thích XK và thương mại nội địa. XTTM giúp sản phẩm có tính cạnh tranh và doanh nghiệp bán được hàng trong và ngoài nước. Hoat động XTTM trong vài năm vừa qua đã hướng vào trọng điểm các mặt hàng, thị trường thông qua việc xây dựng và thực hiện các chương trình XTTM trọng điểm quốc gia, cơ chế tham vấn, điều phối hoạt động giữa các tổ chức XTTM. Chương trình XTTM trọng điểm quốc gia đã góp phần tập hợp nguồn lực theo hướng tạo qui mô có tính tổng hợp và hướng tập trung trong hỗ trợ doanh nghiệp bám sát hàng hoá và thị trường trọng điểm để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp. Nhằm tạo dựng chỗ đứng cho hàng hoá, dịch vụ Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào thị trường khu vực và quốc tế, khẳng định doanh nghiệp và sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước, các chương trình xây dựng, quảng bá thương
hiệu cần chú trọng xây dựng bảo vệ nhãn hiệu thương hiệu có bài bản hạn chế tình trạng chạy theo phong trào.
Tính chuyên nghiệp trong hoạt động XTTM của Việt Nam cần được nâng cao hơn nữa. Chúng ta cần đẩy mạnh hoạt động XTTM theo hướng vừa tiếp tục tăng cường sức mạnh mang tính hệ thống, vừa nâng cao trình độ chuyên môn hoá hoạt động XTTM, chú trọng đến chiều sâu để các hoạt động XTTM có hiệu quả . Để hoạt động này có những bước phát triển vững chắc và mạnh mẽ, chính phủ cần phải xây dựng chiến lược dài hạn trong phát triển XTTM trên nhiều mặt, làm sao để có thể huy động được tối đa các nguồn lực cho hoạt động này. Cục XTTM có vai trò tổ chức và quản lí hoạt động XTTM, xây dựng điều phối giám sát chương trình XTTM trọng điểm quốc gia. Vai trò ấy cần được tăng cường về hiệu quả hoạt động, nhất là trong lĩnh vực XK, trong các hoạt động khuyến mãi, hội chợ triển lãm, Một công việc không kém phần quan trọng là đẩy mạnh công tác đào tạo phân cấp quản lí trong XTTM để tạo chuyển biến về chất của hoạt động này.
Từ thực trạng một năm qua , trong thời gian tới chúng ta cần đặc biệt lưu ý những vấn đề sau:
- Tập trung các hoạt động XTTM của nhà nước vào tổ chức các chương trình lớn nhằm quảng bá hình ảnh quốc gia, đặc biệt là tới các thị trường NK lớn, thị trường NK có nhiều tiềm năng đối với hàng hoá của Việt Nam thông qua các kênh truyền hình lớn của quốc tế như: CNN, BBC, The economist…Các chương trình lớn cần chú ý bao gồm:
+) Chương trình hỗ trợ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp. Mục tiêu của chương trình này, trước hết là đảm bảo cho doanh nghiệp có thể tiếp cận một cách nhanh chóng trực tiếp và cập nhật các văn bản pháp luật về kinh tế của các tổ chức mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời cung cấp thông tin có tính chất dự báo, định hướng về thị trường, sản phẩm doanh nghiệp. Điều
này đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức XTTM phải đổi mới một cách căn bản cách thức tiếp cận, xử lí thông tin.
+) Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp về nghiên cứu và phát triển (R&D) như nghiên cứu phân tích thị trường, thiết kế sản phẩm mới, xây dựng các chuẩn để đánh giá… phục vụ cho việc mở rộng thị trường, phát triển sản phẩm, tìm đối tác của doanh nghiệp. Đây là yêu cầu hết sức cần thiết của doanh nghiệp nhưng do khả năng tài chính và nguồn lực có hạn nên các doanh nghiệp không thể tự tiến hành.
+) Chương trình xúc tiến tổng hợp về thương mại, đầu tư, dịch vụ, du lịch, văn hoá nhằm liên kết có hiệu quả hoạt động XTTM với các ngành, lĩnh vực gắn với việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người, sản phẩm Việt Nam tại các thị trường trọng điểm và thị trường tiềm năng.
- Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động XTTM cấp cao để thúc đẩy hợp tác, đầu tư và buôn bán giữa Việt Nam với các nước, thu hút các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam để từ đó tạo nên những làn sóng chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực sản xuất hàng XK có nhiều tiềm năng.
- Đổi mới công tác tổ chức các chương trình XTTM theo hướng chú trọng vào khâu tổ chức và cung cấp thông tin thị trường, giảm bớt các chương trình khảo sát thị trường mang tính nhỏ lẻ, tăng cường hoạt động XTTM thông qua việc hỗ trợ các đoàn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
- Trong biện pháp đổi mới hệ thống XTTM, cần chú trọng phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống, trong đó các tổ chức XTTM chính phủ tập trung chủ yếu thực hiện chức năng quản lí nhà nước về XTTM, xây dựng khung pháp lí, cơ chế chính sách chủ trì các chương trình dự án XTTM quốc gia, đề xuất tham gia điều hành Quỹ XTTM- đầu tư quốc gia. Các tổ chức XTTM phi chính phủ và cả hiệp hội doanh nghiệp đóng vai trò là người trực tiếp tổ chức các hoạt động XTTM, đầu tư hỗ trợ các doanh
nghiệp trong lĩnh vực và ngành hàng cụ thể, mà các tổ chức này đại diện và tham gia đề xuất thực hiện các chương trình XTTM quốc gia với tư cách “nhà thầu phụ cho chính phủ”.
3.3.1.3. Các biện pháp chống nguy cơ bán phá giá đối với hàng XK Việt Nam
Sau khi tham gia vào WTO, nguy cơ bị kiện chống bán phá giá của hàng XK Việt Nam ngày càng cao. Tất nhiên với tư cách thành viên WTO, Việt Nam có thế sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để chống lại sự lạm dụng các biện pháp chống bán phá giá của các nước đối tác thương mại. Tuy nhiên đây chỉ là biện pháp hạn chế trong ngắn hạn do các chủ thể tham gia từ Việt Nam không có đủ tiềm lực về tài chính. Vì vậy Việt Nam cần chủ động dựa vào chính sách riêng của mình để chủ động hạn chế rủi ro bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá, bắt đầu với chính sách thương mại. Tư cách “nền kinh tế thị trường” cho phép các nhà điều tra chống bán phá giá nước ngoài sử dụng các ước định về giá cả để ước tính giá cả nội địa và giá thành hàng XK của Việt Nam để kết luận có bán phá giá hay không. Những ước định này làm cho việc chứng minh được sự tồn tại của phá giá dễ dàng hơn nhiều, và làm tăng thêm biên độ phá giá so với trường hợp của các nền kinh tế thị trường. Vì vậy, biện pháp đối phó đầu tiên mà Việt Nam cần làm là nhanh chóng cải cách chính sách thương mại và công nghiệp của mình để được các nước đối tác công nhận là “nền kinh tế thị trường” cáng sớm càng tốt. Bởi các nhà điều tra bán phá giá sẽ tự động tra tư cách “nền kinh tế thị trường” cho các nhà XK Việt Nam thoả mãn 3 điều kiện sau:
Thứ nhất, Biểu thuế tối huệ quốc của Việt Nam đánh lên một sản phẩm liên quan ở mức vừa phải ( ví dụ < 10%)
Thứ hai, Các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam không áp đặt “các biện pháp vùng xám chủ chốt” lên các sản phẩm liên quan
Thứ ba, các công ty phân phối độc quyền nhà nước không được liên quan đến việc phân phối các chủng loại sản phẩm ( trong hoặc ngoài nước) tương tự như những sản phẩm liên quan.
Vì vậy trong thời gian tới, việc áp dụng những biểu thuế vừa phải đồng bộ để giảm bóp méo về giá cả trên thị trường nội địa sẽ góp phần giảm đáng kể khả năng bị kiện bán phá giá. Tất nhiên, một biện pháp hữu hiệu khác, nhưng không dễ thực hiện là nâng cấp cơ cấu mặt hàng XK, tránh tập trung quá nhiều vào các mặt hàng dễ bị kiện như dệt may, thuỷ sản, da giày… Chừng nào Việt Nam vẫn tập trung vào xuất khẩu các mặt hàng nói trên thì nghuy cơ bị kiện chống phá giá vẫn còn. Trong những năm ngay sau khi gia nhập WTO, do cơ cấu sản xuất hàng và xuất khẩu không thể có ngay những biến chuyển đáng kể nên nếu chính sách thương mại không có những cải thiện lớn theo hướng nói trên thì Việt Nam cần phải tiên lượng trước và sẳn sàng đương đầu với những vụ kiện mới. Các nhà XK Việt Nam cũng cần nhận thức rõ ràng rằng XK của Việt Nam sẽ sẽ ít bị rủi ro kiện bán phá giá nếu chúng ta cũng tích cực mở cửa thị trường của mình theo đúng cam kết với WTO.
3.3.1.4. Đưa ra những chính sách tập trung phát triển XK những mặt hàng và dịch vụ trọng điểm
Với tư cách là thành viên của WTO, hàng hoá và dịch vụ XK của Việt Nam sẽ đối mặt với nhiều khó khăn hơn chủ yếu là do những hỗ trợ trực tiếp có tính trợ cấp của chính phủ sẽ phải hạn chế sử dụng. Vì vậy, cơ cấu hàng xuất khẩu và dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam phải chuyển dịch trên định hướng chính phủ và lợi thế so sánh, nhu cầu của thị trường thế giới và xu hướng dịch chuyển sản xuất giữa các khu vực trên thế giới. Theo đó, đến năm 2010 cần có những chính sách tập trung phát triển những hàng hoá và dịch vụ trọng điểm. Đối với nhóm hàng hoá sản phẩm công nghiệp và chế biến cần tập trung nâng cao kim ngạch XK những mặt hàng dưới đây:
Sản phẩm điện tử và máy tính là nhóm sản phẩm có thể sản xuất với qui mô lớn, tận dụng nguồn nhân lực dồi dào, có chi phí sản xuất thấp nhưng đáp ứng được yêu cầu của ngành để phục vụ XK. Cơ cấu sản phẩm trong nhóm này cũng cần tập trung vào các sản phẩm tinh vi, có hàm lượng giá trị gia tăng và giá trị XK cao như: Chíp điện tử, màn hình tinh thể lỏng, tivi plasma… Để sản xuất ra các sản phẩm này đòi hỏi các dự án phải có vốn đầu tư lớn, máy móc thiết bị hiện đại.
Sản phẩm dệt may, da giày là sản phẩm Việt Nam có thể thực hiện được các đơn hàng đòi hỏi mức độ tinh xảo cao. Chính vì thế, cơ cấu của nhóm hàng này cần chuyển sang về khâu thiết kế, các đơn giá FOB, và phát triển các dự án sản xuất nguyên phụ liệu ở trong nước để hạ giá thành nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm XK. Trong nhóm hàng này, cần phát triển đồ nội thất, cặp, túi xách và các đồ gia dụng khác.
Đối với thực phẩm chế biến, cần phải tập trung giải quyết một số hạn chế cơ bản của ngành của ngành đó là công nghệ chế biến, PR và marketing, cho sản phẩm và một trong các giải pháp là thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài vào sản xuất, chế biến sản phẩm XK.
Nhóm sản phẩm phần mềm là sản phẩm rất đa dạng và phong phú, từ thiết kế các siêu vi mạch gói phần mềm ứng dụng chuẩn hoá đến phần mềm sản xuất kinh doanh… Để kim ngạch XK mặt hàng này được nhanh chóng nâng cao, cần cải thiện một số hạn chế như ngoại ngữ và trình độ quốc tế hoá của các lập trình viên.
Đối với hàng thủ công mĩ nghệ, trong thời gian ngắn và trung hạn, việc lựa chọn sản xuất và XK các mặt hàng này là một trong những lựa chọn tối ưu của nước ta. Do vậy khâu thiết kế kiểu dáng cần bắt kịp được với nhu cầu thị trường.