Nhóm hàng nông lâm thuỷ sản, vẫn nên tiếp tục tập trung vào các mặt hàng chủ lực: cà phê, gạo, điều… Trong nhóm hàng này cần tập trung nâng cao hàm lượng chế biến, giảm tối đa hàm lượng xuất khẩu sản phẩm thô.
Trong lĩnh vực dịch vụ, căn cứ vào những lợi thế so sánh hiện tại định hướng phát triển của chính phủ và lộ trình mở của thị trường dịch vụ với WTO cần phải đẩy mạnh các dịch vụ sau: dịch vụ vận tải, hàng không… Để thực hiện kế hoạch đề ra trong giai đoạn 2006 – 2010 ngành dịch vụ cần phát triển thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh và độ mở cửa thị trường trong thời gian tới nhằm góp phần thu hút công nghệ và giảm giá thành.
3.3.1.5. Giải pháp hạn chế nhập siêu
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu, nhưng nguyên nhân sâu sa của hiện tượng này chính là do hiệu quả và khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước còn hạn chế nên không thể đáp ứng đủ nhu cầu và nếu có hàng hoá để đáp ứng thì cũng khó cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Nhập siêu trong thời gian tới là việc không thể tránh khỏi. Tuy nhiên có ba biện pháp lâu dài đó là: thứ nhất, chuyển thị trường nhập khẩu, mở rộng và đa dạng hoá thị trường nhập khẩu hiện tại của nước ta, hạn chế sự phụ thuộc quá mức vào một số thị trường. Đặc biệt chú ý đến một số thị trường như: EU, Hoa Kỳ, Nhật là những thị trường có công nghệ cao và công nghệ nguồn;Thứ hai, đầu tư sản xuất hàng hoá thay thế hàng nhập khẩu. Trong chiến lược này cần phải có chính sách mở của để khuyến khích thu hút đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ; Thứ ba, đẩy mạnh xuất khẩu mạnh hơn nữa để giảm nhập siêu.
3.3.1.6. Nhà nước với chính sách phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực luôn là một thế mạnh của Việt Nam khi bước vào hội nhập kinh tế quốc tế. Lao động nước ta dồi dào, giá rẻ cần cù, thông minh luôn được các nhà đầu tư chú ý khi xem xét khi đầu tư vào Việt Nam. Tuy
vậy chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy là tính chuyên nghiệp cũng như trình độ của đội ngũ lao động Việt Nam chưa cao. Theo quan điểm của Đảng, trong thời gian tới, nếu chúng ta muốn nâng cao kim ngạch XK thì một biện pháp quan trọng không thể không kể tới là gia tăng lượng giá trị gia tăng. Muốn làm được như vậy trước hết cần nâng cao chất lượng nguồn lao động, đạt được những tiêu chuẩn do quốc tế thừa nhận. Đối với nền kinh tế nói chung và ngành ngoại thương nói riêng, yếu tố con người là nhân tố quyết định cho sự phát triển trong giai đoạn hội nhập như hiện nay. Hiện nay lao động nước ta còn 4 điểm hạn chế lớn cần khắc phục:
+) Trình độ chuyên môn, tay nghề kĩ năng hành nghề và tính năng động linh động chưa cao.
Có thể bạn quan tâm!
- Quan Điểm Của Đảng Và Nhà Nước Về Phát Triển Ngoại Thương Việt Nam
- Chiến Lược Phát Triển Ngoại Thương Việt Nam Thời Kì 2001-2010, Tầm Nhìn 2020
- Nâng Cao Hiệu Quả Của Công Tác Xúc Tiến Thương Mại ( Xttm)
- Ngoại thương Việt Nam nhìn lại 1 năm sau khi gia nhập WTO và những giải pháp kiến nghị trong thời gian tới - 14
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
+) Tinh thần chấp hành kỉ luật lao động, hiểu biết pháp luật nói chung, pháp luật lao động nói riêng và ý thức chất hành pháp luật yếu.
+) Văn hoá ứng xử trong lao động chưa phù hợp yêu cầu của sản xuất công nghiệp.
+) Thiếu ngoại ngữ.
Để khắc phục những nhược điểm trên, nhà nước cần phải đầu tư hơn nữa cho giáo dục, năng cao chất lượng đào tạo trong nước. Riêng đối với lao động trong ngành ngoại thương, cần phải nâng cao hơn nữa trình độ ngoại ngữ, khả năng giao tiếp với khách hàng nước ngoài. Luôn luôn nâng cao tay nghề để theo kịp và đáp ứng được nhu cầu thị trường quốc tế.
3.3.2. Giải pháp về phía doanh nghiệp
Với vai trò là người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất hàng hoá và tổ chức XNK, các doanh nghiệp các doanh nghiệp cần chủ động tận dụng những điều kiện thuận lợi cũng như sự hỗ trợ từ phía nhà nước để đẩy mạnh sản xuất, đổi mới tổ chức hoạt động nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta
đã gia nhập WTO, sức cạnh tranh ngày càng gay gắt, môI trường cạnh tranh được mở rộng trên phạm vi toàn thế giới, thì yêu cầu về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp ngoại thương nói riêng ngày càng cấp thiết. Chúng ta muốn đẩy mạnh XK, giảm nhập siêu thì doanh nghiệp Ngoại thương phải là nhân tố chủ chốt, đi tiên phong. Muốn làm được điều đó trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay, các doanh nghiệp ngoại thương nên tập trung vàp một số vấn đề như sau
3.3.2.1. Tổ chức tái cơ cấu doanh nghiệp
Khi hội nhập, các doanh nghịêp ngoại thương Việt Nam sẽ tham gia vào một sân chơi mới với sự cạnh tranh bình đẳng. ở đó sẽ không còn ưu đãi hay bảo hộ nào nữa. Các đối thủ mới với tiềm lực hùng mạnh về tài chính công nghệ, và năng lực cạnh tranh cao thực sự là một thách thức lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam khi chưa có kinh nghiệm trong sân chơi này. Một điểm đáng lưu ý là doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự đổi mới tư duy trong quản lí và tổ chức. Bởi vậy trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần tính toán kĩ để sắp xếp, tổ chức lại lao động, hệ thống sản xuất, hệ thống tài chính, hệ thống phân phối, thị trường tiêu thụ. Sự sắp xếp thay đổi một cách toàn diện theo quy trình chuẩn sẽ tạo cho doanh nghiệp có khả năng thực hiện công việc của mình một cách hiệu quả và bền vững, từ đó tạo lợi thế cạnh tranh, khẳng định được vị thế trên thị trường toàn thế giới. Các đề án tái cơ cấu doanh nghiệp vẫn đang được triển khai và thực hiện khá rộng ở Việt Nam. Các mô hình công ty mẹ công ty con, mô hình tập đoàn không còn xa lạ nữa. Các doanh nghiệp đã sẵn sàng đón nhận cuộc chơi bình đẳng giữa tất cả các doanh nghiệp trong xu thế hội nhập mới. Tuy nhiên sự chuẩn bị cho cuộc chơi này chưa thật chủ động ở tất cả các doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp dự báo được xu hướng thời cuộc đã tiến hành thay đổi cơ cấu từ nhiều năm nay. Tuy
nhiên vẫn còn những doanh nghiệp thờ ơ với thời cuộc, không đủ khả năng để đối mặt với thách thức.
Dự án thí điểm tái cơ cấu doanh nghiệp được Bộ phát triển quốc tế Vương quốc Anh tài trợ thông qua ngân hàng Thề giới. Ba tổng công ty được chọn làm thí điểm tham gia dự án này là Dệt may (Vinatex), Thuỷ sản (Seapodex), Caphê (Vinacafe). Với mục tiêu chung là cải thiện năng lực kinh doanh lâu dài của các tổng công ty, kế hoạch tái cơ cấu sẽ được chia làm 2 giai đoạn 2003-2005 và 2005-2008. Trong đó giai đoạn một đã cơ bản hoàn thành với việc xây dựng các kế hoạch tái cơ cấu cho các tổng công ty. Giai đoạn hai sẽ tập trung vào một số hoạt động mở rộng ở Vinatex và Vinacafe. Qua dự án này, bài học kinh nghiệm bước đầu rút ra đó là : Yếu tố quyết định sự thành công trong quá trình tái cơ cấu là sự thay đổi nhận thức của các cấp lãnh đạo, kết hợp với đường lối chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, có sự hỗ trợ của các nhà tài trợ, các nhà tư vấn có kinh nghiệm.
Từ những dự án thí điểm trên có thể thấy, tái cơ cấu doanh nghiệp là cần thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tái cơ cấu giúp các doanh nghiệp ngoại thương hoạt động hiệu quả hơn, đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp trên toàn thế giới.
3.3.2.2. Nâng cao năng lực thu nhận thông tin KTQT, hiểu biết về WTO
Doanh nghiệp ngoại thương trong bối cảnh hội nhập như ngày nay, khi mà nước ta đã trở thành thành viên chính thức của WTO, cần không ngừng nâng cao hiểu biết về thương mại quốc tế, nhằm sẵn sàng đối phó với những tranh chấp phát sinh khi kinh doanh XNK, cũng như chủ động yêu cầu chính phủ có những biện pháp xử lí kịp thời khi các đối thủ nước ngoài có hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Việt Nam. Các điều khoản thương mại quốc tế, Incoterms, ISBP, UCP500, ULC…là những văn bản pháp luật mà doanh nghiệp ngoại thương phải nắm tường tận. Bên cạnh
đó, khi chúng ta đã là thành viên của WTO, thì việc nghiên cứu tổ chức này sẽ giúp chúng ta có thể tận dụng những ưu đãi và hạn chế những bất cập trong quan hệ buôn bán với bạn bè quốc tế. Trên thực tế các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian vừa qua đã vướng vào rất nhiều các vụ kiện bán phá giá của Hoa Kỳ, EU… Nhằm tránh những vụ kiện bất lợi như vậy, doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu sâu hơn nữa những qui định của WTO về lĩnh vực này. Bên cạnh liên tục thu nhận thông tin từ thị trường quốc tế, chúng ta cũng cần không ngừng đẩy mạnh trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp ngoại thương và các bộ ngành liên quan như Bộ công thương, Tham tán thương mại ở các nước. Điều này giúp doanh nghiệp vững tin hơn khi hợp tác kinh doanh với các nước bên ngoài. Sự giúp đỡ về pháp lí của các tham tán thương mại là cần thiết trong việc cung cấp thông tin về thị trường môi trường pháp luật, giúp doanh nghiệp có định hướng đúng đắn khi kinh doanh.
3.3.2.3. Không ngừng mở rộng thị trường
Nói chung các doanh ngoại thương, đặc biệt là các doanh nghiệp XK cần năng động hơn nữa trong công tác tìm kiếm và mở rộng thị trường. Tham gia hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào thị trường thế giới là gia nhập nền kinh tế thị trường biến động với cung cầu luôn thay đổi, cần phải có chiến lược thích ứng nhanh. Do nước ta là nước gia nhập sau, cần phải tận dụng cơ hội về khoảng trống thị trường do xu thế toàn cầu hoá tạo ra, để nhanh chóng chiếm lĩnh những thị trường đó. Chính vì vậy trong thời gian trước mắt, nỗ lực sản xuất các mặt hàng ta có lợi thế so sánh quốc tế, hướng về xuất khẩu sẽ là bước đi đúng đắn cho các nhà sản xuất của Việt Nam.
Doanh nghiệp ngoại thương Việt Nam khó có thể xâm nhập thị trường quốc tế bằng con đường rộng, dàn trải, mà chỉ có thể tìm kiếm và tập trung nguồn lực vào các “tiểu thị trường” hay còn gọi là chiến lược thị trường ngách. Thị trường ngách đựơc hiểu là một bộ phận nhỏ tập trung vào nhóm
khách hàng nào đó, một khu vực thị trường hẹp nào đó trên thị trường quốc tế. Để thực hiện được chiến lược này, các doanh nghiệp ngoại thương ngoài nỗ lực tự chính sức lực của mình cần phải có các hình thức phối hợp hỗ trợ của các tổ chức đại diện trong một chính sách tổng thể và đồng bộ. Trong đó hoạt động của các dự án hỗ trợ doanh nghiệp XNK chiếm một vị trí hết sức đáng quan tâm.
3.3.2.4. Phát huy hơn nữa yếu tố con người
Thực tiễn đã chứng minh, nhân tố con người đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Tái sản lớn nhất của các công ty ngày nay không phải là công xưởng, tiền của mà là ý tưởng, chất xám của con người. Do đó việc phát triển nhân tố con người đóng vai trò then chốt, là điều kiện vô cùng quan trọng trong quá trình thực hiện giải pháp kinh doanh của mình. Đầu tư vào nguồn nhân lực là hoạt động sinh lời nhất, hiệu quả nhất đối với tất cả các doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thì vai trò của nguồn nhân lực lại càng được đánh giá cao hơn. Bởi trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam khi mà các yếu tố như công nghệ, tài chính còn yếu thì nguồn nhân lực dồi dào, cần cù, thông minh là lợi thế lớn nhất để Việt Nam hội nhập thành công. Chính vì thế, doanh nghiệp ngoại thương Việt Nam cần phải tập trung phát huy nhân tố con người một cách hiệu quả nhất để khai thác được những thế mạnh và hạn chế những điểm yếu của người lao động mới có thể cạnh tranh được thành công khi chúng ta hội nhập sâu vào WTO. Khi đầu tư vào nguồn nhân lực, một số kiến nghị cho doanh nghiệp đó là:
Thứ nhất, doanh nghiệp ngoại thương cần phải chú trọng hơn nữa trong việc nâng cao trình độ cho cán bộ, cải tiến lối làm việc, rèn luyện đạo đức tác phong lao động. Doanh nghiệp nên quan tâm đào tạo và đầu tư thích đáng cho cán bộ quản lí ở cấp doanh nghịêp. Nếu các thành viên này có trình độ kinh nghiệm, khả năng đánh giá, năng động, có mối quan hệ tốt với bên
ngoài thì họ sẽ đem lại cho doanh nghiệp không những lợi ích trước mắt như tăng doanh thu, lợi nhuận và còn cả lợi ích uy tín lâu dài của doanh nghiệp. Để phát huy năng lực của bộ phận này, đòi hỏi các doanh nghiệp ngoại thương phải chú trọng vào việc tìm và bồi dưỡng những cán bộ trẻ có tài, có năng lực, năng động với thời cuộc. Đối với người lao động, cần thông quan “xã hội hoá xã hội và giáo dục” tiến hành đào tạo và táI đào tạo đội ngũ lao động theo chiến lược sản phẩm đã xác định theo hướng tỉ trọng lao động cơ bắp giảm dần, tỷ trọng lao động trí óc tăng lên và ngày càng chiếm ưu thế. Đối với doanh nghiệp ngoại thương do đặc trưng của ngành nghề là phải tiếp xúc với khách hàng quốc tế, vì vậy đòi hỏi đội ngũ lao động trong ngành phải có trình độ ngoại ngữ tốt. Ngoại ngữ thành thạo là chìa khoá để đàm phán, ký kết hợp đồng ngoại thương được diễn ra dễ dàng hơn. Do vậy không ngừng nâng cao trình độ ngoại ngữ là yêu cầu cấp thiết cho người lao động trong ngành ngoại thương. Các doanh nghiệp nên tạo điều kiện, hỗ trợ khuyến khích người lao động nâng cao ngoại ngữ và khả năng giao tiếp với bạn bè quốc tế.
Thứ hai, cần luôn luôn chú ý quan tâm chú ý đến nguyện vọng tâm tư của người lao động, đảm bảo tính công bằng trong đãi ngộ, môi trường lao động ít độc hại và một bầu không khí tập thể hoà thuận, thoải mái, năng động. Xây dung một nền “văn hoá doanh nghiệp” lành mạnh và phù hợp với ngành, làm người lao động từ trên xuống dưới luôn thấm nhuần tư tưởng mục đích hoạt động của doanh nghiệp, của ngành. Nó sẽ tạo ra chất keo gắn bó, giữa những người lao động với nhau và giữa người lao động với công ty của mình. Từ đó thúc đẩy động cơ làm việc, phát huy năng lực sáng tạo của người lao động, giúp người lao động tiếp thu được chuẩn mực đạo đức và có thái độ hăng hái làm việc, nhằm đạt được mục đích của công ty, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển.
3.3.2.5. Nâng cao chất lượng sản phẩm XK, tăng cường sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khẩu
Doanh nghiệp Việt Nam tuy không có nguồn vốn và nguồn công nghệ dồi dào nhưng, bù lại chúng ta lại có nguồn lao động và tài nguyên phong phú. Do vậy sản phẩm chúng ta sản xuất ra luôn có mức giá cạnh tranh và được người tiêu dùng ưa chuộng. Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển đi lên, vấn đề giá cả không còn là một tiêu chuẩn cạnh tranh mạnh nhất nữa. Người tiêu dùng hiện nay phần lớn đều quan tâm đến chất lượng của sản phẩm, tính an toàn với môi trường. Chính vì thế yếu tố chất lượng và bảo vệ môi trường đang được một số thị trường như EU, Nhật, Hoa Kỳ coi là một biện pháp kĩ thuật chống lại hàng hoá các nước nhập vào các thị trường này. Vì thế, chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm là một nhịêm vụ cấp bách của bất kỳ doanh nghịêp ngoại thương nào. Nâng cao chất lượng sản phẩm không những giành được lợi thế cạnh tranh trên bình diện doanh nghiệp mà còn mang lại uy tín trên tầm quốc gia. Nâng cao chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với việc chúng ta cần đầu tư kiểm tra nghiêm ngặt ngay trong khâu đầu vào sản xuất. Nguồn lực kĩ thuật cũng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì thế cần đầu tư hơn nữa cho công nghệ sản xuất, đảm bảo sản phẩm làm ra đáp ứng được tiêu chuẩn của những thị trường khó tính nhất. Có như vậy chúng ta mới khẳng định được thương hiệu của mình, gây dựng lòng tin với bạn bè quốc tế.