Nghiên cứu - ứng dụng mô hình liên kết bốn nhà vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp nông thôn tỉnh Trà Vinh - 2


“bốn nhà” (nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp, nông dân) trong sản xuất – chế biến – tiêu thụ. Mặc dù, đã đạt được một số kết quả nhưng trong thực tế qua tổng kết và đánh giá của các cơ quan chuyên môn, sau hơn 10 năm thực hiện, sự liên kết vẫn rất lỏng lẻo; hiệu quả còn thấp.

Tỉnh Trà Vinh là tỉnh nông nghiệp và về lâu dài, nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Vai trò này được thể hiện trước hết ở mức sản lượng, thu nhập, việc làm được tạo ra từ sản xuất khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn, ở khả năng phát huy lợi thế so sánh để tạo ra thế ổn định trong phát triển. Do vậy, nền kinh tế nông nghiệp tỉnh Trà Vinh phải có sự liên kết chặt chẽ giữa “các nhà” trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, sự liên kết trong sản xuất nông nghiệp chưa chặt chẽ, làm cho việc sản xuất nông nghiệp gặp bất ổn về giá, sản lượng. Bên cạnh đó, với sự phát triển công nghiệp của tỉnh sẽ làm cho khoảng cách về kinh tế - xã hội vùng thành thị và vùng nông thôn càng thêm lớn. Để giảm sự chênh lệch vai trò của “bốn nhà” là rất lớn, sự phát triển kinh tế - xã hội nông nghiệp nông thôn giữ vai trò quan trọng trong nội dung phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Trà Vinh. Vai trò này thể hiện ở mức sản lượng, thu nhập, việc làm tạo ra từ sản xuất ngành, ở khả năng phát huy lợi thế so sánh để phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn.

Phát triển nông nghiệp của tỉnh Trà Vinh chỉ dừng lại ở sản xuất với quy mô nhỏ, chưa có sự liên kết hỗ trợ của các chủ thể, hoặc là sự liên kết trong sản xuất nông nghiệp rất lỏng lẻo. Mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh như: tổ hợp tác, hợp tác xã chưa đủ khả năng tự chủ sản xuất kinh doanh, khả năng tự tích lũy, mở rộng đầu tư nhằm đảm bảo tồn tại, phát triển theo yêu cầu. Ở tỉnh Trà Vinh, tình trạng vi phạm trong liên kết là vấn đề thường xuyên xảy ra làm cho các mối quan hệ càng thêm lỏng lẻo. Một số nông dân chưa gạt bỏ được tư tưởng hám lợi trước mắt; còn doanh nghiệp chưa tôn trọng các hợp đồng đã ký hay chưa thực hiện đầy đủ các cam kết, việc thiếu cơ chế rõ ràng khiến vai trò của nhà khoa học chưa được đề cao. Những hạn chế và yếu kém của sự liên kết trong nông nghiệp có thể làm giảm năng lực sản xuất, cạnh tranh, khả năng thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do đó, việc tìm mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết đối với tỉnh hiện nay nói riêng và trong phát triển toàn ngành nói chung. Hình thức liên kết “bốn nhà” không chỉ làm tăng năng


lực, vai trò, hiệu quả sản xuất của các nhà, điều kiện, môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi, mà sâu xa hơn, sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.


Trên đây là những vấn đề nghiên cứu mang tính bức thiết, chiến lược cho quá trình phát triển mô hình liên kết trong nông nghiệp và vấn đề này cần phải thực hiện nhanh, trước yêu cầu của đổi mới và sâu rộng như hiện nay ngành nông nghiệp chưa đáp ứng được. Bên cạnh đó, mô hình liên kết bốn nhà là một mô hình cần phải có và được nhân rộng trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà Vinh, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ cho sự phát triển chung, tôi lựa chọn đề tài: “NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG MÔ HÌNH LIÊN KẾT “BỐN NHÀ” VÀO THỰC TIỄN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP NÔNG

THÔN TỈNH TRÀ VINH để làm luận án nghiên cứu sinh.

1.2.Tổng quan tài liệu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 156 trang tài liệu này.

Trong phát triển kinh tế xã hội nông nghiệp nông thôn vai trò của các nhà đã được các nhà kinh tế đúc kết các kinh nghiệm sau:

Phát huy vai trò và sức mạnh tổng hợp của “các nhà” là tận dụng có hiệu quả nhất tiềm năng, lợi thế so sánh về sản xuất nông nghiệp nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm có giá trị cao, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, đẩy nhanh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Nghiên cứu - ứng dụng mô hình liên kết bốn nhà vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp nông thôn tỉnh Trà Vinh - 2

Tăng cường sự liên kết, hỗ trợ nhau giữa các nhà kinh doanh, hướng vào mục tiêu, đối tượng chung là phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển nông nghiệp nông thôn.

Vai trò nhà nước là thực hiện nguyên tắc quản lý vĩ mô về kinh tế: tập trung, vận dụng có hiệu quả các quy luật khách quan, kết hợp hài hòa lợi ích các tập thể, cá nhân, tạo điều kiện và có cơ chế rõ ràng cho “các nhà” khác hoạt động.

Nông hộ và sự cần thiết phải liên kết

Nông hộ và các hình thức liên kết của nông hộ trong hợp tác sản xuất kinh doanh là những vấn đề không mới trong phát triển nông nghiệp nông thôn và đã có rất nhiều báo cáo, tài liệu nghiên cứu đúc rút kinh nghiệm về vấn đề này.

Nông hộ và liên kết giữa các nông hộ đã được nhắc đến trong rất nhiều tài liệu cơ bản về kinh tế học sản xuất và kinh tế hộ nông dân.

Ellis Frank (1993) định nghĩa nông hộ nhỏ (peasant farm household) với các tính chất cơ bản là chủ yếu sống bằng nông nghiệp, sử dụng lao động gia đình để


sản xuất trên mảnh đất của mình, tham gia không hoàn toàn vào thị trường đầu vào và đầu ra. Định nghĩa này cho phép phân biệt nông hộ nhỏ với các nông trại gia đình mang tính chất doanh nghiệp (family farm enterprises) ở các nước phát triển và những nông dân sản xuất nông sản hàng hóa trong bối cảnh có đầy đủ thị trường đầu vào và đầu ra.

Việc phân biệt giữa nông hộ nhỏ và nông trại doanh nghiệp còn được phân tích nhiều trên khía cạnh lợi thế nhờ quy mô. Đây là một khái niệm rút ra từ lý thuyết kinh tế tân cổ điển. Về lý thuyết, nông hộ nhỏ khó có thể tồn tại vì giá thành sản xuất cao, kém cạnh tranh so với nông trại có quy mô lớn. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế học cho rằng vấn đề này không tồn tại hoặc có ảnh hưởng rất nhỏ vì nhiều lý do (Boussard 1987, Brossier et al. 1997) vì không thể có sự tập trung vốn cao độ trong nông nghiệp cũng như thực trạng tồn tại song song của cả nông trại lớn lẫn nhỏ, kể cả ngay ở các nước phát triển phương Tây. Hơn nữa, giá đất nông nghiệp cao và tư hữu đất đai là lực cản đối với tích tụ ruộng đất và tính kinh tế nhờ quy mô. Trong khi đó, các nhà kinh tế học khác lại cho rằng nó tồn tại ở một mức độ nào đó (Ellis, 1993), và các nguồn lực không chia nhỏ được đóng vai trò chủ yếu.

Thảo luận về sự phân hóa sở hữu nguồn lực sản xuất, lợi thế và bất lợi của các nông trại nhỏ và lớn, Dhondyal (1990) cho rằng các nông trại nhỏ có ít lợi thế hơn so với nông trại lớn. Nguyên nhân chủ yếu do: i) Những nông hộ nhỏ khó có sự kết hợp đúng về đất đai, lao động, vốn và quản lý để đạt được tối đa hóa lợi nhuận; ii) Mục tiêu sử dụng lao động một cách kinh tế bị hạn chế; iii) Chi phí cố định trên một đơn vị sản phẩm cao; iv) Mục tiêu cải thiện quy trình canh tác bị giới hạn; v) Khả năng đa dạng hóa sản xuất bị hạn chế. Tuy nhiên, các nông trại nhỏ có thể đạt được các lợi thế này bằng cách hình thành các tổ chức hiệp hội hợp tác.

Sự liên kết của các nông trại nhỏ dưới nhiều hình thức khác nhau là một nhân tố quan trọng để giúp họ có được những lợi thế mà họ không thể có được nếu đứng riêng lẻ. Trong một xã hội mở với nền kinh tế thị trường, sự liên kết này lại càng hết sức cần thiết để giúp nông dân gắn kết với các yếu tố thị trường. Bằng cách liên kết với nhau, các nhóm nông dân có thể mua vật tư đầu vào với khối lượng lớn có giá rẻ hơn, bán nông sản với khối lượng lớn với giá cao hơn, chi phí giao dịch thấp hơn, cải thiện tính cạnh tranh và quyền điều đình trả giá


(bargaining power). Sự liên kết cũng giúp nông dân tăng khả năng đàm phán với các thị trường đầu vào như ngân hàng, tổ chức tín dụng; các nhà cung cấp vật tư đầu vào và nhà thu mua nông sản. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tăng khả năng tiếp cận thị trường của nông dân.

Mối liên kết ngang như vậy (horizontal linkages) không chỉ cần thiết đối với nông dân mà còn đối với tất cả các dạng hình của người sản xuất, doanh

nghiệp vừa và nhỏ ở

tất cả

các ngành nghề

trong một xã hội hiện đại và thị

trường hóa tối đa như hiện nay. Đặc biệt khi các hoạt động sản xuất của nông dân được chuyên nghiệp hóa trong một chuỗi giá trị (value chain) của một ngành hàng cụ thể (commodity chain), quan hệ liên kết dọc thường được thể hiện dưới hình thức sản xuất theo hợp đồng (contract farming). Trong trường hợp này, kinh nghiệm thế giới cho thấy việc kết hợp giữa sản xuất theo hợp đồng và tổ chức hợp tác của nông dân có thể tăng cường khả năng tiếp cận các cơ hội thị trường mới và các dịch vụ hỗ trợ đầu tư thâm canh của các nông hộ nhỏ. Sự hợp tác giữa nông dân thường hoạt động tốt nhất khi nhóm nông dân được kết nối với thị trường đầu vào và đầu ra thông qua hợp đồng (Jonathan Coulter và cộng sự., 1977). Đồng thời, sự hợp tác này cũng có xu hướng thành công với các nhóm nông dân nhỏ, dính kết với nhau, liên kết một cách phụ thuộc lẫn nhau (linkage-dependent) trong quan hệ với ngành kinh doanh nông sản (agri-business). Từ đó, các chính sách công và các sáng kiến phát triển khuyến khích liên kết giữa nông dân và ngành kinh doanh nông sản nên bao gồm cả những hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp cho các liên kết thị trường giữa các nông dân nhỏ.

Theo Đặng Kim Sơn (2006) thì phát triển kinh tế hộ sau khi tạo ra kết quả tốt về công bằng xã hội và phát huy nội lực của người sản xuất nhỏ, nay lại đứng trước vòng lẩn quẩn của sản xuất nhỏ trước nền kinh tế hàng hóa lớn. Tác giả cũng cho rằng cơ hội phát triển trang trại sản xuất lớn đang trôi qua và cần nhiều quyết sách của Nhà nước (nhưng có lẽ chưa được thực hiện). Như vậy, để nông thôn có thể vươn lên, chỉ có con đường phát triển các hình thức kinh tế hợp tác mới để tăng khả năng thương lượng, khả năng cạnh tranh, khả năng tự vệ trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của toàn cầu hóa và công nghiệp hóa phải thu hút các hộ tiểu nông không thể trở thành trang trại và doanh nghiệp nông thôn vào kinh tế hợp tác. Tuy nhiên, vẫn phải khẳng định kinh tế hộ là chủ đạo trong phát triển nông nghiệp, nông thôn trong tình hình hiện nay và trong nhiều năm sắp tới.


Đặc biệt, việc tăng cường sản xuất hàng hóa, hội nhập với nền kinh tế thế giới lại đặt ra nhiều thách thức mới cho kinh tế hộ và các hình thức liên kết trong sản xuất – kinh doanh trong nông nghiệp. Trên thực tế, từ nhiều năm nay, việc xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam ở một số ngành hàng nhất định vẫn gặp khó khăn vì thiếu vùng nguyên liệu đủ lớn và ổn định. Sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thiếu hợp tác đang là lực cản rất lớn của ngành kinh doanh nông sản điển hình là ngành rau quả. Mặc dù được đánh giá là một ngành có tiềm năng xuất khẩu to lớn và có tính cạnh tranh, nhưng việc có được nguồn hàng ổn định, đồng nhất về tiêu chuẩn, chất lượng và có khối lượng hàng hóa đủ lớn không hề dễ dàng chút nào. Lý do cơ bản là nông hộ vẫn chưa liên kết với nhau để sản xuất hàng hóa có hiệu quả lâu dài. Nói chung, việc hội nhập kinh tế thế giới đặt ra yêu cầu phát triển mạnh ngành kinh doanh nông sản, hình thành các quan hệ liên kết dọc trong chuỗi giá trị của ngành hàng và đồng thời lại yêu cầu tăng cường liên kết ngang để nâng cao sức mạnh, vị trí của ngành hàng, bảo đảm sản xuất đủ quy mô kinh doanh, sự đồng nhất về tiêu chuẩn, chất lượng và có tính ổn định.

Theo Nguyễn Từ (2007), khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hóa sản xuất từ nông thôn còn thấp, chỉ trừ một số sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao như lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, điều và một số mặt hàng thủy sản. Các mặt hàng nông sản như thịt heo, mía, bông, rau quả thì giá thành và giá bán trong nước đều cao hơn nhiều nước trên thế giới và khu vực, mà nguyên nhân chủ yếu là do sản xuất nông nghiệp Việt Nam phần lớn do các nông hộ qui mô nhỏ đảm trách với 13 triệu hộ dân sản xuất nông nghiệp trên 70 triệu thửa ruộng manh mún, chất lượng nông sản còn thấp, nhất là vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm còn kém. Mặt khác năng lực của các chủ thể kinh doanh nông nghiệp còn yếu, thiếu liên kết hỗ trợ lẫn nhau. Theo thông cáo báo chí của Ngân hàng phát triển Châu Á (2005) do tập quán sản xuất nhỏ nên nông dân thường gặp khó khăn trong việc tự tổ chức và liên kết với nhau để cùng sản xuất theo hợp đồng, do đó vai trò của các hiệp hội ngành nghề và liên minh hợp tác xã (HTX) là vô cùng quan trọng.

Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới WTO từ tháng 11 năm 2006, thì việc xuất khẩu các mặt hàng nông sản phải tuân thủ các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn GAP và thương hiệu hàng hóa thường được đặt ra mà thông thường để đạt sản xuất theo tiêu chuẩn GAP trong điều kiện sản xuất nông nghiệp Việt Nam còn nhỏ lẻ, manh mún thì nhất thiết phải hình thành các tổ chức liên kết để xây


dựng thương hiệu hàng hóa cũng như chứng nhận tiêu chuẩn hàng hóa. Mặt khác, khi các doanh nghiệp ký kết hợp đồng với nông dân, nếu ký kết từng hộ nông dân thì chi phí giao dịch sẽ cao, nhất là khi có sự tranh chấp hợp đồng, do đó doanh nghiệp thường ký với tổ chức đại diện nông dân mà hình thức phổ biến là các tổ hợp tác và hình thức cao hơn là HTX.

Tổ chức của nông dân và các hình thức liên kết

Tuỳ theo từng quốc gia, trên thế giới có nhiều hình thức tổ chức của nông

dân như Nhóm nông dân (Farm Group); Nhóm sản xuất (Producer Group); Hội

nông dân (Farm Association); Tổ hợp tác (Cooperative)… vì mục đích khác nhau, với qui mô số lượng khác nhau. Ở Việt nam, theo nghề nghiệp ở nông thôn từ lâu đã hình thành các tổ chức của nông dân mang tính cộng đồng rất cao như Phường, Hội (T.N.Thêm, 1994). Tựu chung tổ chức của nông dân đều là tập hợp của những người nông dân để cùng thực hiện một hoạt động mang lại lợi ích cho họ. Các tổ chức của nông dân thường thấy ở nông thôn Việt nam hiện nay là HTX, tổ sản xuất, các hội và hiệp hội. Liên quan tới sinh kế nông thôn ở Việt nam thường nổi bật hơn cả là các HTX và tổ sản xuất. Hiện nay, tuy chúng ta đã có Luật HTX nhưng hình thức này vẫn chưa được nông dân thiết tha nên vẫn chưa phổ biến (Đ.T.Tuấn, 2006). Một loại hình tổ chức của nông dân giúp nhau trong sản xuất nông nghiệp đang được nhiều vùng nông thôn hưởng ứng hiện nay, đặc biệt là ở các tỉnh Nam bộ là tổ hợp tác. Đó là hình thức phát triển ban đầu của HTX. Tổ chức này mang tính tự nguyện, phi lợi nhuận và hợp tác để tăng thêm sức mạnh, cùng giải quyết được những khó khăn mà sản xuất kinh tế hộ khó giải quyết tốt được (Đ.T.Tuấn, 2006).

Hình thức liên kết phổ biến và được nhiều quốc gia quan tâm đầu tư nhất là HTX nông nghiệp. Các nước có nhiều kinh nghiệm tổ chức liên kết sản xuất HTX cho các nông hộ nhỏ và rất thành công như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Tổ chức HTX và các hiệp hội ngành nghề của nông dân đóng vai trò quan trọng ở Hà Lan. Các hiệp hội ngành nghề và hiệp hội thương mại, trong đó hiệp hội ngành hàng là tổ chức liên kết ngang của trang trại liên kết các bộ môn của trang trại, còn hiệp hội hàng hoá là tổ chức ngành dọc, liên kết khâu cung ứng nguyên liệu đến tiêu thụ sản phẩm của trang trại. Các chủ trang trại và người làm thuê có đại biểu của tổ chức mình nằm trong chính quyền, đảm bảo rằng, một khi lợi ích cộng đồng của họ gặp trắc trở, thì lập tức được hiệp thương xử lý. Ngoài ra, các chủ trang trại còn lập ra


các tổ chức về kỹ thuật, tin học, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ để hỗ trợ lẫn nhau (Đặng Kim Sơn và Vũ Trọng Bình, 2006).

Xu thế phát triển đòi hỏi việc hình thành HTX. Tất nhiên đó là loại hình HTX kiểu mới bao gồm cả sự hợp tác về sản xuất cũng như các hoạt động dịch vụ đầu vào, đầu ra. Tuy nhiên, (Đào Thế Tuấn, 2006) chỉ ra rằng muốn tiến lên HTX là một hình thức cao nhất của hoạt động hợp tác thì cần phải trải qua các tổ chức nông dân đơn giản mang tính chất tương trợ để nông dân có điều kiện học tập trong thực tế. Có thể khẳng định rằng tổ chức của nông dân là hoạt động mang tính quyết định đối với sự tồn tại của liên kết dọc giữa người sản xuất và các tác nhân khác trong nền kinh tế thị trường.

Cơ chế chính sách Việt Nam đặc biệt coi trọng việc tổ chức liên kết sản xuất, mà điển hình là việc ban hành Luật HTX năm 2003. Mặc dù Luật HTX đã ra đời và được áp dụng vào thực tiễn, vẫn có không ít khó khăn xảy ra. Khi phân tích đánh giá vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam trong thời kỳ

mới, Đào Thế

Tuấn (2006) cũng

ủng hộ

việc hình thành các tổ

chức chuyên

nghiệp của nông dân, có tính chất đa dạng, dễ thích ứng với các đặc thù địa

phương. Các tổ chức nông dân kiểu mới này không nhằm giải quyết các quan hệ bên trong mà nhằm xây dựng thêm các mối quan hệ bên ngoài như giúp tiếp xúc với thị trường và xã hội. Tác giả cũng chỉ ra những khiếm khuyết của HTX, Luật HTX hiện nay, và đặt ra vấn đề liên kết dọc, tổ chức các HTX theo ngành hàng. Đồng thời, để thúc đẩy nông nghiệp hợp đồng (theo Quyết định 80/2002/QĐ-

TTg), nông dân cần phải tổ

chức lại thành HTX hay hiệp hội để

bênh vực

quyền lợi cho nhau và tăng khả năng mặc cả trên thị trường.


Như vậy, liên kết giữa các nông hộ trong sản xuất – kinh doanh từ đơn

thuần là một biện pháp đối phó với các thế lực thị trường, hoặc chỉ thuần túy là tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh của cả nhóm và từng hộ cá lẻ, đã phát triển trở thành một thể chế quản lý và phát triển nông thôn, giúp cho nông dân có thể tự làm chủ được cuộc sống của mình.

Theo J. Bingen (1999), những ảnh hưởng tích cực của tổ chức hợp tác (liên kết ngang) và các mối liên kết dọc với các chuỗi siêu thị và các doanh nghiệp kinh doanh nông sản thường chiếm ưu thế về tiếp cận thị trường ở phần lớn các nước đang phát triển. Đặc biệt ở các vùng gần đô thị, do hoàn cảnh thuận lợi về địa lý,


nông dân ven đô thường có cơ hội lớn tiếp cận với thị trường năng động và tiêu

thụ

với số

lượng lớn (cầu lớn). Tuy nhiên, theo Dillon, J.L. and J.B. Hardaker

(1993), lợi thế này sẽ hoàn toàn không được khai thác nếu họ chỉ là những hộ sản xuất nhỏ, manh mún với sản phẩm hàng hoá không đồng nhất và số lượng nhỏ, chưa kể đến hàng loạt yếu tố khác như sức ép của các hộ sản xuất nhỏ là chi phí sản xuất thường lớn hơn các trang trại lớn, được đầu tư mạnh (vốn có nhiều ở các vùng ven đô) khiến lợi thế cạnh tranh giảm. Các loại hình tổ chức kinh tế từ những hình thức đơn giản, mang tính tương trợ, phi lợi nhuận như tổ hợp tác, nhóm nông dân… tới những hình thức phát triển hợp tác cao hơn như hợp tác xã với qui mô sản xuất lớn, tổ chức theo chuỗi ngành hàng, liên kết với các đối tác bằng các hợp đồng nông sản đang được coi là giải pháp lựa chọn khả thi hiện nay nhằm tăng hiệu quả của sản xuất, tăng giá trị hàng hóa nông sản, phản ứng kịp với những đòi hỏi của thị trường luôn biến động (Phil Simmons, 2006).

Paul, M. và các cộng sự (2006) cho biết một hội thảo quốc tế vừa được tổ chức ở Việt nam bởi UMR MOISA nhằm mục đích xác định phương thức tổ chức các hộ sản xuất nhỏ trước trạng thái luôn biến động của thị trường, đặc biệt là thị trường đô thị và thị trường xuất khẩu, tìm ra nguyên nhân tại sao các hộ sản xuất nhỏ lại gặp khó khăn trong việc tăng sản lượng cũng như đạt giá trị gia tăng cao trong sản xuất. Tại sao hộ sản xuất nhỏ lại phải phụ thuộc nhiều vào người mua sản phẩm của họ cũng như người cung cấp vật tư đầu vào hoặc tại sao họ lại luôn phải bị loại ra ngoài thị trường sôi động. Kết luận cho thấy chính sự yếu kém trong việc hình thành các mối liên kết giữa các hộ sản xuất thành một tổ chức của mình để tạo thêm sức mạnh và để cùng nhau tăng khả năng mặc cả, đàm phán với thị trường là nguyên nhân của những vấn đề nêu trên. Sự hình thành các tổ chức của nông dân – hình thức liên kết ngang và sự hoạt động của tổ chức này trong sự gắn kết chặt với thị trường - các liên kết dọc là một thể thống nhất đẩy nền nông nghiệp và xã hội nông thôn phát triển.

Tăng cường sự hình thành các tổ chức của nông dân còn là xu hướng để củng cố vốn xã hội (social capital), đặc biệt ở đây là củng cố các mối liên kết thông qua vốn quan hệ (quan hệ gia đình, quan hệ bạn bè, quan hệ làng xóm). Đây

đang là xu thế phát triển nông thôn kiểu mới trên toàn cầu (Staveren. I, 2002).

Điểm này sẽ rất phù hợp với xã hội nông thôn Việt Nam, trong đó có vùng Nam bộ. Một đặc thù nổi bật của người Nam bộ là rất trọng chữ tín. Những liên kết

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/12/2022