Nghiên cứu tình hình thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang trong thời kỳ từ năm 1991 đến năm 2008 - 2

Dựa trên các nguồn tư liệu, luận văn này khái quát lại tình hình “Thị xã Tuyên Quang từ 1991 đến 2008”, qua đó khẳng định những thành quả đã đạt được và hạn chế còn tồn tại; đồng thời khẳng định thêm sự đúng đắn trong chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối phát triển cho mô hình địa phương miền núi phía Bắc.

Đề tài cũng làm rõ thêm về truyền thống lịch sử, văn hóa tốt đẹp của thị xã Tuyên Quang trong quá khứ và hiện tại.

Lịch sử địa phương là một bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc. Dạy và học lịch sử địa phương không chỉ giúp học sinh hiểu về mảnh đất và con người nơi mình sinh ra và lớn lên, hun đúc niềm tự hào, giáo dục truyền thống, trách nhiệm công dân mà còn là cách giúp học sinh nhận thức sâu sắc thêm lịch sử dân tộc. Đáp ứng yêu cầu giảng dạy phần lịch sử địa phương trong phân phối chương trình bộ môn lịch sử ở trường phổ thông, luận văn có thể cung cấp nguồn tư liệu cho việc biên soạn và giảng dạy phần lịch sử địa phương, góp phần giáo dục thế hệ trẻ biết tôn trọng và phát huy truyền thống lịch sử quê hương.

Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài:

“Thị xã Tuyên Quang từ 1991 đến 2008”.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

Đề tài về lịch sử địa phương trong những giai đoạn đổi mới đất nước đã được nghiên cứu và công bố nhiều cả ở tầm vĩ mô và vi mô, trước hết là tại các văn kiện Đảng và Nhà nước và các công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng bộ địa phương.

Vai trò của kinh tế địa phương thể hiện trong các văn kiện Đảng và Nhà nước đó là các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), VII (1991), VIII (1996), IX (2001), X (2006).

Các cuốn sách "Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và của thời đại" của Trường Chinh, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1987; "Đổi mới sâu

sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực" của đồng chí Nguyễn Văn Linh, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1987; "Sự nghiệp đổi mới và chủ nghĩa xã hội" của Tổng Bí thư Đỗ Mười, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1992… đã nêu lên những yêu cầu, định hướng đổi mới kinh tế - xã hội của nước ta.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Tác phẩm "Nắm vững đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên xây dựng kinh tế địa phương vững mạnh" của Lê Duẩn, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1968 đã nói rõ vị trí, vai trò của kinh tế địa phương đối với sự phát triển kinh tế đất nước thời đổi mới.

Việt Nam những chặng đường lịch sử 1954 - 1975; 1975 - 2005. NXB Giáo dục, Hà Nội 2005.

Nghiên cứu tình hình thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang trong thời kỳ từ năm 1991 đến năm 2008 - 2

Việt Nam 1954 - 2005 (21 năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước và 30 năm xây dựng bảo vệ Tổ quốc). NXB Giáo dục, Hà Nội, 2005.

Trần Xuân Minh, Lịch sử Việt Nam 1945 - 2000, Nhà xuất bản Giáo dục - 2006

Các công trình nghiên cứu về các vấn đề kinh tế - xã hội thời kỳ đổi mới như tác phẩm "Lịch sử Việt Nam từ năm 1975 đến nay - những vấn đề lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998; "Đổi mới kinh tế - xã hội thành tựu, vấn đề và giải pháp" của Phạm Xuân Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

.... Các tài liệu nói trên đã đặt ra những yêu cầu, định hướng cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

Đối với thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, vấn đề “Thị xã Tuyên Quang từ 1991 đến 2008” được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu của các cơ quan, cá nhân, các báo cáo của các cơ quan Đảng, chính quyền địa phương, trong đó có:

- Lịch sử truyền thống xây dựng và phát triển của thị xã Tuyên Quang được giới thiệu trong cuốn "Lịch sử Đảng bộ thị xã Tuyên Quang". Cuốn sách

đã nêu lên một cách khá đầy đủ, tổng quát về công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội thị xã dưới sự lãnh đạo của Đảng trong những năm đổi mới.

- Cuốn "Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang". Cuốn sách đã nêu lên một cách tổng quát về công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

- UBND thị xã Tuyên Quang: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thị xã Tuyên Quang đến năm 2020, Báo cáo tổng hợp, Tuyên Quang, tháng 8-2007.

- Báo cáo thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng hằng năm của UBND thị xã Tuyên Quang.

- Trong báo cáo của các phòng, ban như phòng Giáo dục và Đào tạo, phòng Công nghiệp, phòng Thương mại và Dịch vụ, phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, phòng Tài nguyên & Môi trường… có đề cập đến chuyên ngành do phòng ban phụ trách nên không toàn diện, không có tính tổng quát.

- Hệ thống niên giám thống kê của Cục thống kê tỉnh Tuyên Quang, phòng thống kê thị xã Tuyên Quang thống kê những số liệu trong quá trình xây dựng và phát triển thị xã Tuyên Quang nhưng còn đơn lẻ, chưa có hệ thống, chưa phản ánh được toàn cảnh tình hình thị xã Tuyên Quang giai đoạn 1991 đến 2008.

Tất cả các công trình nghiên cứu và tài liệu đã đề cập đến tình hình thị xã Tuyên Quang, nhưng ở đây chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, đầy đủ, hệ thống về thị xã Tuyên Quang từ năm 1991 đến năm 2008. Với việc thực hiện đề tài: “Thị xã Tuyên Quang từ 1991 đến 2008”, chúng tôi đánh giá cao các công trình nghiên cứu đi trước và đã xem xét, lựa chọn sử dụng, vừa mang tính kế thừa, đồng thời phát triển để hoàn thành luận văn của mình.

Do khoảng cách thời gian lịch sử mà đề tài này đề cập còn quá ngắn, tình hình kinh tế - xã hội còn đang tiếp diễn, việc nhận xét đánh giá thật không dễ dàng khi tầm nhìn lịch sử còn chưa đủ rõ; giữa lịch sử và thời sự khó phân biệt nhau về ranh giới, do đó sẽ gặp khó khăn lớn về phương pháp nghiên cứu chuyên ngành - đó là phương pháp lịch sử. Với ý nghĩa nhất định về khoa học cũng như về thực tiễn như đã trình bày ở trên, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài này.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài.

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tình hình Thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang trong thời kỳ từ năm 1991 đến năm 2008 trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Giới hạn không gian: Đề tài giới hạn trong thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang

- Giới hạn về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thị xã Tuyên Quang từ năm 1991, sau quyết định tách tỉnh Hà Tuyên thành tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang, cho đến năm 2008, năm được công nhận trở thành đô thị loại III.

3.3. Nhiệm vụ đề tài

Nghiên cứu, làm rõ công cuộc xây dựng và phát triển thị xã Tuyên Quang từ năm 1991, sau quyết định tách tỉnh Hà Tuyên thành tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang, cho đến năm 2008, những thành tựu và hạn chế cần khắc phục. Nhìn nhận những bước đi trong sự phát triển bền vững của thị xã.

Rút ra những bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế, môi trường và giải quyết các vấn đề của xã hội trong thời kỳ đổi mới ở địa phương, đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa công cuộc phát triển bền vững ở thị xã Tuyên Quang.

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.

4.1. Nguồn tư liệu

Để hoàn thành luận văn, chúng tôi dựa vào các tư liệu sau:

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các chỉ thị nghị quyết, báo cáo tổng kết của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang, thị uỷ, UBND thị xã Tuyên Quang trong thời gian từ năm 1991 đến năm 2009, các số liệu, hệ thống bảng biểu của trung tâm lưu trữ, Cục thống kê Tuyên Quang, phòng lữu trữ thị xã Tuyên Quang, các sở, ban ngành liên quan.

Các sách, báo, bài viết, các công trình nghiên cứu về tình các địa phương trong giai đoạn đổi mới, các bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo tỉnh, thị xã về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của thị xã Tuyên Quang.

Đó là những nguồn tư liệu quan trọng giúp chúng tôi dựng lại bức tranh lịch sử về quá trình phát triển của thị xã Tuyên Quang từ năm 1991 đến năm 2008 một cách trung thực, khách quan nhất.

Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các tài liệu thu thập được qua các đợt điều tra điền dã tại địa phương.

Do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, thị xã Tuyên Quang nằm bên dòng sông Lô, hàng năm đều bị ngập lụt, nên nhiều tư liệu về tình hình thị xã Tuyên Quang từ năm 1991 đến nay bị thất lạc, rách nát. Các tư liệu chủ yếu là các số liệu tổng kết hàng năm nên còn rời rạc, thiếu tính tổng hợp, khái quát. Đó là những khó khăn trong việc sử dụng tư liệu để nghiên cứu, hoàn thành luận văn. Chúng tôi đã cố gắng sưu tầm, khai thác tư liệu từ nhiều nguồn, phân tích, so sánh đối chiếu để có được những tư liệu đáng tin cậy, khách quan nhất.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử là chủ yếu nhằm khôi phục lại bức tranh về Thị xã Tuyên Quang từ năm 1991 đến

2008. Kết hợp với phương pháp lôgíc để đánh giá, nhận xét, rút ra đặc điểm, bài học kinh nghiệm của quá trình đổi mới ở thị xã Tuyên Quang.

Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp điều tra điền dã, thống kê, so sánh, đối chiếu phân tích, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ nội dung của để tài .

5. Đóng góp của luận văn.

Luận văn trình bày hệ thống, chân thực về thị xã Tuyên Quang từ năm 1991 đến năm 2008.

Từ kết quả nghiên cứu, luận văn nêu lên đặc điểm, thành tựu, ưu điểm cũng như những hạn chế, bất cập trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của thị xã Tuyên Quang trong thời kỳ đổi mới. Từ đó rút ra nhận xét, đánh giá, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm phát huy mọi tiềm năng, sức mạnh và khắc phục các vấn đề bất cập, tiến tới sự phát triển bền vững.

Luận văn có thể làm tư liệu giáo dục truyền thống lịch sử địa phương, góp phần làm làm rõ tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.

6. Bố cục của luận văn.

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được chia thành 3 chương.

Chương 1: Khái quát về thị xã Tuyên Quang trước năm 1991 Chương 2: Thị xã Tuyên Quang trong giai đoạn 1991 - 2000

Chương 3: Thị xã Tuyên Quang trong quá trình đô thị hoá 2001 - 2008

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ THỊ XÃ TUYÊN QUANG TRƯỚC NĂM 1991

1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên.

1.1.1. Vị trí địa lí.

Thị xã Tuyên Quang là trung tâm tỉnh lỵ Tuyên Quang. Là tỉnh miền núi nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam, cách Hà Nội khoảng 160 km về phía Bắc, Phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Hà Giang và Cao Bằng, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc, phía Đông giáp tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Thái Nguyên, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái.

Thị xã Tuyên Quang có tọa độ địa lý từ 21052’ đến 21043’ vĩ Bắc và 105010’ đến 102020’ kinh Đông, ở vào vùng thấp của tỉnh. Thời điểm 2008, về địa giới hành chính: phía bắc tiếp giáp các xã Tân Long, Thắng Quân, Phú Thịnh; phía nam tiếp giáp các xã Nhữ Khê, Đội Bình, thị trấn Tân Bình thị xã Yên Sơn và xã Vĩnh Lợi, Cấp Tiến thị xã Sơn Dương, phía tây tiếp giáp bốn

xã Kim Phú, Trung Môn, Hoàng Khai và Nhữ Hán thị xã Yên Sơn; diện tích tự nhiên là 11.917,45 ha bằng 2,03% tổng diện tích cả tỉnh (tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Tuyên Quang là 587.038,5) , trong đó đất nông nghiệp 35,66%; đất lâm nghiệp 32,37%; thổ cư và đất chuyên dụng 21,47%; diện tích núi đá, sông ngòi và mặt nước 10,50%. [67, tr.10]

Về hành chính: thị xã Tuyên Quang gồm 7 phường và 6 xã, tổng diên tích đất tự nhiên 119,18 km2; trong đó diện tích nội thị 30,72 km2, diện tích ngoại thị 88,46 km2. [100, tr.2]

Thị xã Tuyên Quang là đầu mối giao thông thủy, bộ quan trọng. Đường thủy có sông Lô, tàu lớn xuôi tới Việt Trì, Hà Nội và các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Mùa mưa, tàu nhỏ có thể ngược sông Lô lên đến Hàm Yên, ngược sông Gâm lên đến Chiêm Hóa. Đường bộ có Quốc lộ 2 nối Tuyên Quang với Hà Nội qua Phú Thọ, Vĩnh Phúc về phía nam, với Hà Giang về phía bắc. Quốc lộ 37 nối Tuyên Quang với Yên Bái và các tỉnh Tây Bắc với Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng và các tỉnh Đông Bắc.[96, tr.10]

Mặc dù thị xã Tuyên Quang nằm sâu trong nội địa, cách xa cảng, cửa khẩu và các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, không có đường hàng không nhưng do có hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy hoàn chỉnh, dày đặc nên việc thông thương, giao dịch, trao đổi hàng hóa của thị xã với bên ngoài khá thuận lợi.

1.1.2. Điều kiện tự nhiên (Địa hình địa mạo)

Địa hình Tuyên Quang tương đối phức tạp và bị chia cắt nhiều bởi hệ thống sông suối. Thị xã Tuyên Quang nằm trong kiểu địa hình thung lũng: phân bố dọc theo dòng sông Lô, tạo thành những bãi bồi không liên tục, thuận lợi cho việc trồng cây nông nghiệp và hoa màu. Kiểu địa hình này thường bị ngập nước vào mùa mưa lũ. Sự chênh lệch độ cao địa hình giữa các vùng trong tỉnh khá lớn.Thị xã Tuyên Quang nằm trong khoảng 10% diện tích của tiểu vùng địa hình đồi thấp và thung lũng: có diện tích không lớn, gồm phần diện tích thuộc các huyện Yên Sơn, Sơn Dương và thị xã Tuyên Quang. Tiểu vùng này có các dải đồng bằng tương đối rộng, phân bố dọc thung lũng các sông, rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. [67, tr.13]

Nằm hai bên bờ sông Lô, địa hình thị xã thấp dần theo hướng bắc - nam. Tả ngạn là dãy núi Tràng Đà - Nông Tiến với một số núi đất và núi đá xen nhau, có đỉnh núi Dùm cao 400m, ven sông có những cánh đồng hẹp. Hữu ngạn đất đai tương đối bằng phẳng, có một vài ngọn núi đất thấp như núi Thổ Sơn, núi Cố. Hai bên tả ngạn, hữu ngạn được nối bởi cầu Nông Tiến, cầu An Hòa và cầu Tân Hà.

Nhìn chung, địa hình địa mạo thị xã Tuyên Quang khá phức tạp, nội thị là khu đất khá bằng phẳng, xen lẫn gò đồi thấp, ao hồ, ruộng trũng, cao độ trung bình cốt 26,5m, có lợi thế hơn cho việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và phân bố dân cư so với các khu vực khác trong tỉnh.

1.1.3. Đặc điểm khí hậu

Khí hậu Tuyên Quang vừa mang tính đa dạng của chế độ hoàn lưu gió mùa nhiệt đới, chịu ảnh hưởng của khí hậu lục địa Bắc á - Trung Hoa, vừa mang tính khí hậu vùng núi cao có địa hình bị phân cắt mạnh. Trong năm, ở khắp nơi trong tỉnh đều có thể thấy sự thay phiên nhau tác động của các khối không khí.

Khí hậu của thị xã là khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm hai mùa rõ rệt; mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Trung bình hằng năm nhiệt độ là 23,00C, độ ẩm là 84%, lượng mưa là 1.600mm.[67, tr.16]

Thị xã Tuyên Quang nằm ở hạ lưu sông Lô, ngoài sông Lô, thị xã còn có ngòi Là, ngòi Cơi, ngòi Chả và ngòi Thục; về mùa mưa các sông, ngòi thường có lũ lụt, gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Hiện tại đã có thuỷ điện Na Hang đầu nguồn sông Gâm và nhiều công trình thuỷ lợi khác đang được Nhà nước đầu tư xây dựng, qua đó hạn chế được nước ngập úng cho thị xã vào mùa mưa.

1.1.4. Tài nguyên

Tài nguyên nước: nước mặt của thị xã vào loại trung bình của lãnh thổ phía Bắc Việt Nam, tiềm năng nước mặt dồi dào, gấp 10 lần yêu cầu nước sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt và nguồn nước mặt là nguồn nước chính cung cấp cho thị xã trong tương lai. Khu vực thị xã có mạng lưới sông ngòi phân bố khá đồng đều. Con sông chính là sông Lô và nhiều sông ngòi nhỏ cùng ao hồ, tạo thành mạng lưới thuỷ văn khá dày. Đây là nguồn nước mặt cung cấp nước chủ yếu cho thị xã hiện nay. Tuy nhiên vào mùa mưa, lũ cao nước sông có hàm lượng cặn lơ lửng, độ đục, độ màu vượt quá giới hạn cho phép gây trở ngại cho việc sử dụng nước sông làm nguồn nước cấp sinh hoạt. Thị xã còn có lượng nước ngầm dồi dào, có ở khắp lãnh thổ và chất lượng tốt đủ tiêu chuẩn dùng trong sinh hoạt. Mực nước ngầm không sâu và tương đối ổn định, thuận lợi cho khai thác, kể cả khai thác đơn giản trong sinh hoạt đời sống

nhân dân. Chất lượng nước ngầm trong khu vực nhìn chung là tốt, nước trong, theo nghiên cứu thì nước không nhiễm cặn, không nhiễm các hợp chất nitơ và kim loại nặng. Tuy vậy, nước ngầm phân bố không đồng đều theo cấu thành địa chất. [67, tr.29]

Về tài nguyên khoáng sản: hiện nay thị xã không còn rừng tự nhiên, chỉ có rừng trồng. Lòng đất thị xã có than và quặng kẽm, song trữ lượng đã bị khai thác cạn kiệt. Ngoài ra, thị xã Tuyên Quang còn có trữ lượng khá lớn đá vôi và cát, sỏi, đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu cho ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng ở địa phương.

Tài nguyên du lịch: Thị xã có cảnh quan thiên nhiên kì thú, nhiều di tích lịch sử - văn hóa, có tiềm năng phát triển du lịch như: dãy núi Tràng Đà (Nông Tiến), thác Cổng Trời, động Tiên và nhiều hang động khác. Cùng đó là hệ thống các đền, chùa như: đền Ỷ La, đền Thượng, đền Cảnh Xanh, đền Cấm, chùa An Vinh, chùa Trùng Quang, chùa Linh Thông, chùa Hương Nghiêm có kiến trúc, cảnh quan đẹp, hằng năm thu hút nhiều du khách đến thăm quan vãn cảnh. Trên địa bàn còn có một số di tích lịch sử như Thành nhà Mạc được xây dựng từ thế kỉ XVI; đền Hạ xây dựng từ thế kỉ XVIII là hai di tích lịch sử - văn hóa xếp hạng cấp quốc gia.

Nhờ có những di tích lịch sử cách mạng như: thành nhà Bầu, thành nhà Mạc, Hòa Mục, Bình Ca, Đá Bàn, Kim Bình, Km7, cầu Cả, đèo Chắn, Hòn lau… và đặc biệt là khu di tích lịch sử Tân Trào... nên từ lâu thị xã Tuyên Quang được nhân dân trong cả nước coi đây là một trung tâm của các tuyến tham quan, du lịch các di tích lịch sử cách mạng, các di tích lịch sử văn hóa của quốc gia tại tỉnh Tuyên Quang

Tài nguyên nhân văn

Tính đến năm 2008, dân số thị xã Tuyên Quang là 92.413 người, trong đó dân số nội thị 70.453 người, với 35.503 người trong độ tuổi lao động, chiếm 64,96% so với tổng dân số nội thị, trong đó lao động nông nghiệp là

6.236 người, lao động phi nông nghiệp (nội thị) 29.267 người, chiếm 82,44% so với tổng số lao động nội thị, tỉ lệ tăng tự nhiên năm 2008 là 9,23%. [22], [100, tr.41]

Cộng đồng các dân tộc khu vực thị xã cũng như tỉnh Tuyên Quang với những truyền thống và bản sắc riêng đã hình thành nên một nền văn hoá phong phú, đa dạng với nhiều nét độc đáo, với truyền thống cách mạng và yêu nước lâu đời, luôn một lòng sắc son theo Đảng, đoàn kết một lòng xây dựng quê hương đất nước ngày một vững mạnh giàu đẹp.

1.2. Dân cư và truyền thống đấu tranh cách mạng.

1.2.1. Dân cư

Trên địa bàn thị xã Tuyên Quang hiện có 18 dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc Kinh chiếm 48,21%, các dân tộc ít người chiếm 51,79% (Tày chiếm 25,45%, Dao chiếm 11,38%, Sán Chay chiếm 8%, Mông chiếm 2,2%, Nùng chiếm 1,9%, Sán Dìu chiếm 1,6%...) [67, tr.51]. Mỗi dân tộc đều có phong tục tập quán và văn hóa riêng, tạo nên sự đa dạng về bản sắc văn hoá.

Về tiếng nói, được xếp vào 4 nhóm chính là: Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (có dân tộc Kinh); nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (có các dân tộc Tày, Cao Lan, Nùng); nhóm ngôn ngữ Mông - Dao (có các dân tộc Mông, Dao, Pà Thẻn, Tống); nhóm ngôn ngữ Hán (có các dân tộc Sán Dìu, Hoa). Các phong tục tập quán mang nét chung, liên quan đến chu kỳ một đời người như: Phong tục sinh đẻ, nuôi con, cưới xin, làm nhà, tang lễ và trong lao động sản xuất, sinh hoạt; trong đó, có những phong tục đẹp như: Hát Quan làng trong lễ cưới, hát Then của dân tộc Tày; hát Soọng cô của dân tộc Sán Dìu; hát Páo dung và cấp sắc của dân tộc Dao; hát Sình ca của dân tộc Cao Lan.

1.2.2. Truyền thống lịch sử đấu tranh cách mạng.

Thời Hùng Vương, tỉnh Tuyên Quang nằm trong địa vực của nhà nước Văn Lang và thuộc địa bàn Bộ Vũ Định. Trải qua các thời kì Đinh, Lê, Lý, Trần, hậu Lê… tỉnh Tuyên Quang thuộc châu Tuyên Quang, Thừa Tuyên

Quang, Trấn Minh Quang. Đời nhà Nguyễn được gọi là tỉnh Tuyên Quang. Nửa cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, tháng 4 -1900, toàn quyền Đông Dương ra nghị định chia Tuyên Quang thành hai tỉnh: Tuyên Quang và Hà Giang. Tỉnh Tuyên Quang bao gồm 6 châu: Yên Sơn, Sơn Dương, Hàm Yên, Chiêm Hóa, Na Hang và Yên Bình (tháng 7 – 1956 thị xã Yên Bình được sáp nhập về tỉnh Yên Bái).

Dưới thời phong kiến và Pháp thuộc, nền kinh tế của thị xã Tuyên Quang chủ yếu là nông nghiệp. Cư dân thị xã phần nhiều sinh sống bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi; kỹ thuật canh tác lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Ngoài chăn nuôi và trồng trọt, cư dân thị xã còn làm nhiều nghề thủ công như: khai thác, chế biến nông - lâm sản và nghề dệt vải từ sợi bông.

Trải qua các thời kỳ, địa dư hành chính của thị xã Tuyên Quang có nhiều biến động. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, thị xã Tuyên Quang chưa là một đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh, các đơn vị hành chính cơ sở thuộc địa bàn thị xã Tuyên Quang ngay khi đó đều thuộc châu Yên Sơn. Sau cách mạng Tháng Tám 1945, tháng 5 - 1946, ủy ban hành chính thị xã Tuyên Quang được thành lập, thị xã Tuyên Quang trở thành một đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Tuyên Quang. Địa giới hành chính của thị xã chỉ bao gồm hai

khu phố Xuân Hòa và Tam Cờ nằm trên hữu ngạn sông Lô với diện tích khoảng 1km2. Tháng 5 - 1948, căn cứ vào điều kiện cụ thể của thị xã Tuyên Quang, Chính phủ đã ra quyết định tạm thời giải thể ủy ban kháng chiến hành chính thị xã Tuyên Quang. Ngày 15 - 2 - 1955, Thủ tướng Chính phủ đã ra Nghị định số 460 tái lập thị xã Tuyên Quang, theo đó, địa giới hành chính của

thị xã Tuyên Quang bao gồm thị xã Tuyên Quang (cũ) và hai thôn Minh Tân, Cầu Lườn thuộc xã Ỷ La ( thị xã Yên Sơn). Đến tháng 10 - 1969, Chính phủ quyết định sáp nhập bốn xã Ỷ La, Hưng Thành, Nông Tiến, Tràng Đà thuộc thị xã Yên Sơn về thị xã Tuyên Quang. Trước tháng 9 - 2008, thị xã Tuyên Quang có bảy đơn vị hành chính gồm ba phường: Tân Quang, Minh Xuân, Phan Thiết và bốn xã Ỷ La, Hưng Thành, Nông Tiến, Tràng Đà. Ngày 3 - 9 -

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/04/2022