Tổng Quan Về Phát Triển Ngân Hàng, Tăng Trưởng Kinh Tế, Độ Mở Thương Mại, Lạm Phát Và Các Nghiên Cứu Trước Liên Quan.

Nam. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của luận án đã chứng minh sự tồn tại mối quan hệ giữa phát triển ngân hàng và tăng trưởng kinh tế trong điều kiện độ mở thương mại và lạm phát tại Việt Nam, cũng như sự ảnh hưởng của cú sốc kinh tế bên ngoài tác động đến mối quan hệ giữa phát triển ngân hàng và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam vào năm 2008. Đồng thời, luận án còn xác định cụ thể một giá trị ngưỡng của độ mở thương mại là 32,86% và giá trị ngưỡng của lạm phát là 9,19% mà trước và sau giá trị ngưỡng này, tác động của phát triển ngân hàng đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam có thay đổi. Cụ thể: Với độ mở thương mại nhỏ hơn 32,86%, cho thấy phát triển ngân hàng không góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, với độ mở thương mại lớn hơn 32,86%, cho thấy phát triển ngân hàng có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Trong khi đó, với tỷ lệ lạm phát dưới ngưỡng 9,19% thì phát triển ngân hàng có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua tín dụng trong nước cho khu vực tư nhân. Và ngược lại, với tỷ lệ lạm phát trên ngưỡng 9,19% tìm thấy sự tác động tích cực của phát triển ngân hàng đến tăng trưởng kinh tế thông qua biên độ chênh lệch lãi suất. Do vậy, kết quả nghiên cứu sẽ là bằng chứng thuyết phục nhất làm cơ sở đề xuất các hàm ý chính sách về phát triển ngân hàng, gia tăng độ mở thương mại và kiểm soát lạm phát để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.

1.6 Bố cục luận án

Chương 1: Giới thiệu nghiên cứu

Trong chương này, luận án sẽ trình bày lý do chọn đề tài, mục tiêu, đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu. Đồng thời, cũng trình bày rõ những đóng góp mới của luận án cả về mặt khoa học và mặt thực tiễn.

Chương 2: Tổng quan về phát triển ngân hàng, tăng trưởng kinh tế, độ mở thương mại, lạm phát và các nghiên cứu trước liên quan.

Trong chương 2, luận án hệ thống các khái niệm để giải thích các thuật ngữ được sử dụng trong luận án. Đồng thời trình bày khung lý thuyết nền tảng giải thích về mối quan hệ giữa phát triển ngân hàng và tăng trưởng kinh tế cũng như mối quan hệ song phương giữa phát triển ngân hàng với độ mở thương mại, giữa phát triển ngân hàng với lạm phát, giữa tăng trưởng kinh tế với độ mở thương mại, giữa tăng trưởng kinh tế với lạm phát. Từ đó làm cơ sở để giải thích mối quan hệ giữa phát triển ngân hàng và tăng trưởng kinh tế trong điều kiện độ mở thương mại và lạm phát tại Việt Nam, Đồng thời, luận án cũng lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm trước đây có liên quan đến vấn đề

nghiên cứu của luận án. Từ đó chỉ ra khoảng trống trong nghiên cứu của luận án. Từ khoảng trống nghiên cứu, luận án xây dựng các mục tiêu chính và mục tiêu cụ thể để từng bước làm rõ vấn đề nghiên cứu.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu của chương 2, trong chương 3 luận án sẽ lựa chọn mô hình nghiên cứu và biện luận để lựa chọn mô hình nghiên cứu phù hợp đồng thời xây dựng các giả thuyết nghiên cứu trong mô hình nghiên cứu. Ngoài ra, chương 2 cũng mô tả dữ liệu nghiên cứu, lý do lựa chọn thời gian nghiên cứu.

Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 223 trang tài liệu này.

Trong chương 4, luận án sẽ trình bày thực trạng và kết quả ước lượng mô hình nghiên cứu. Từ đó, thực hiện thảo luận các kết quả nghiên cứu, làm cơ sở đề đề xuất các hàm ý chính sách ở chương 5.

Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách

Nghiên cứu mối quan hệ giữa phát triển ngân hàng và tăng trưởng kinh tế trong điều kiện độ mở thương mại và lạm phát: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam - 4

Trong chương 5, trên cơ sở thảo luận các kết quả ước lượng từ chương 4, luận án sẽ đề xuất các hàm ý chính sách phù hợp.

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG, TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, ĐỘ MỞ THƯƠNG MẠI, LẠM PHÁT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC LIÊN QUAN

2.1 Khung khái niệm

2.1.1 Phát triển ngân hàng

Greenwood và Jovanovic (1990) và Bencivenga và Smith (1991) nhấn mạnh rằng phát triển tài chính bao gồm cả phát triển khu vực ngân hàng và phát triển thị trường chứng khoán là nhân tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, hai bộ phận quan trọng của hệ thống tài chính đó là thị trường tài chính và ngân hàng (Mankiw và Ball, 2011). Mặt khác, theo Ang (2008a), phát triển tài chính có thể được hiểu là phát triển khu vực ngân hàng và/hoặc phát triển thị trường chứng khoán. Do đó, luận án sẽ trình bày phát triển ngân hàng dựa trên hướng tiếp cận phát triển tài chính.

2.1.1.1 Khái niệm về phát triển ngân hàng

Có nhiều định nghĩa khác nhau về phát triển ngân hàng do có nhiều hướng tiếp cận về phát triển ngân hàng khác nhau. Cụ thể như sau:

Theo Rudar (2014), phát triển ngân hàng được định nghĩa là một quá trình cải tiến về số lượng, chất lượng và hiệu quả của dịch vụ ngân hàng. Hay nói cách khác, phát triển ngành ngân hàng là một quá trình đánh dấu sự cải thiện về số lượng, chất lượng và hiệu quả của dịch vụ ngân hàng có liên quan đến thu nhập quốc dân (GDP).

Mihail (2014), phát triển ngân hàng là một khái niệm phức tạp nên để xét phát triển ngân hàng thì xét trong mối tương quan đóng góp nhiều nhất với sự tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, theo ông phát triển ngân hàng là các biện pháp của hoạt động ngân hàng, quy mô ngân hàng và hiệu quả ngân hàng gắn với trưởng kinh tế.

Levine (2005), phát triển ngân hàng là sự cải thiện của hệ thống ngân hàng trong việc thực hiện các chức năng bao gồm: Tích lũy tiết kiệm; Phân bổ vốn cho đầu tư sản xuất; Giám sát các khoản đầu tư; Phân tán rủi ro và trao đổi hàng hóa và dịch vụ.

Hartmann (2007), phát triển ngân hàng là một quá trình đổi mới, cải thiện về thể chế và tổ chức trong hệ thống làm giảm thông tin bất đối xứng và tăng khả năng ký kết hợp đồng, giảm chi phí giao dịch và tăng khả năng cạnh tranh.

Theo luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam (2010), ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng

bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, tác giả chỉ nghiên cứu phát triển ngân hàng ở góc độ ngân hàng thương mại mà ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các Tổ chức Tín dụng Việt Nam nhằm mục tiêu lợi nhuận (Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam).

Như vậy, với nhiều hướng tiếp cận về định nghĩa phát triển ngân hàng trên, chúng ta có thể hiểu phát triển ngân hàng là các biện pháp để cải thiện về quy mô và hiệu quả của dịch vụ ngân hàng vì mục tiêu lợi nhuận nhưng gắn với tăng trưởng kinh tế.

2.1.1.2 Đo lường phát triển ngân hàng

Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (2016), đo lường sự phát triển của trung gian tài chính thông qua ba chỉ tiêu đó là chỉ tiêu đo lường về độ sâu tài chính, chỉ tiêu đo lường về khả năng tiếp cận tài chính và chỉ tiêu đo lường về hiệu quả tài chính. Trong khi đó, đo lường sự phát triển trung gian tài chính được Ngân hàng thế giới (2018) bổ sung thêm một chỉ tiêu nữa bên cạnh bộ chỉ tiêu đo lường của Quỹ tiền tệ quốc tế (2016) đó là chỉ tiêu đo lường về tính ổn định của trung gian tài chính.

Đo lường phát triển ngân hàng theo độ sâu tài chính (Depth)

Độ sâu phản ánh quy mô và khả năng thanh khoản của ngành ngân hàng trong nền kinh tế và được so sánh với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Chỉ số đại diện đo lường độ sâu tài chính của hệ thống ngân hàng được sử dụng là: Tỷ lệ tín dụng trong nước của khu vực tư nhân so với GDP (Private Sector Credit to GDP): Chỉ số này phản ánh mức vốn tín dụng do ngân hàng thương mại cho vay đối với các cá nhân, doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân để phục vụ cho các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống nên chỉ số này khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Chỉ số này có tương quan mạnh mẽ với mức thu nhập của của quốc gia và có mối tương quan với tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, chỉ số này cũng phản ánh hiệu quả của việc sử dụng lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế được huy động dưới dạng tiền gửi tại ngân hàng thương mại để cho vay

Đo lường phát triển ngân hàng theo khả năng tiếp cận tài chính (Access)

Khả năng tiếp cận tài chính phản ánh khả năng mà các cá nhân và doanh nghiệp trong nền kinh tế sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngành ngân hàng để từ đó có thể

tận dụng các cơ hội kinh doanh, đầu tư, tiết kiệm. Nếu những lợi ích có được từ việc phát triển ngân hàng không lan truyền đủ rộng rãi trong dân cư và các thành phần kinh tế thì sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế cũng như những rủi ro tiềm ẩn đối với sự phát triển ngân hàng của một quốc gia nếu như các tài sản tài chính tập trung ít hoặc rất ít trong dân cư và các doanh nghiệp của quốc gia đó. Khả năng tiếp cận tài chính có thể là việc sử dụng hoặc truy cập các sản phẩm dịch vụ ngân hàng một cách trực tiếp hay gián tiếp. Chỉ số đại diện đo lường khả năng tiếp cận tài chính thường được sử dụng là Số lượng chi nhánh ngân hàng thương mại trên 100.000 người trưởng thành Branches per 100,000 adults (commercial banks): Chỉ số này phản ánh khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ ngân hàng một cách thuận lợi nhanh chóng của người dân trong nền kinh tế. Một nền kinh tế có hệ thống ngân hàng phát triển thì khoảng cách vị trí tại nơi người dân sinh sống đến tại chi nhánh ngân hàng thương mại càng được thu hẹp lại. Chỉ số này phản ánh việc tiếp cận tài chính có thể mở rộng cơ hội cho tất cả mọi người với mức độ truy cập và sử dụng dịch vụ ngân hàng cao hơn, thuận lợi hơn mọi lúc mọi nơi.

Đo lường phát triển ngân hàng theo hướng hiệu quả (Efficiency)

Hiệu quả tài chính phản ánh khả năng hệ thống ngân hàng thương mại cung cấp các dịch vụ tài chính với chi phí thấp nhưng vẫn đạt được mức thu nhập bền vững cũng như quy mô hoạt của ngân hàng. Chỉ số này được các nhà phân tích đánh giá khả năng sử dụng tài sản để tạo thành thu nhập của ngân hàng. Chỉ số đại diện đo lường hiệu quả tài chính của ngân hàng thường được sử dụng là Biên độ chênh lệch lãi suất giữa tiền gửi và tiền vay (Lending-deposits spread): chỉ số này phản ánh mức chênh lệch lãi suất giữa hoạt động tín dụng và hoạt động huy động vốn mà ngân hàng thương mại được hưởng. Chỉ số này còn được gọi là chênh lệch lãi ròng, mức chênh lệch lãi ròng càng cao thì ngân hàng thương mại càng có lời và ngược lại, mức chênh lệch lãi ròng thấp thì mức lợi nhuận được hưởng giảm đi. Tùy thuộc vào mỗi chu kỳ tín dụng và các chính sách điều tiết của Ngân hàng nhà nước hoặc chính sách cho vay của từng ngân hàng mà biên độ chênh lệch lãi suất tiền gửi tiền vay sẽ khác nhau giữa các thời kỳ và giữa các ngân hàng.

Đo lường phát triển ngân hàng theo hướng ổn định (Stability)

Có nhiều định nghĩa về sự ổn định tài chính và phần lớn các định nghĩa đều có điểm chung đó là sự ổn định về tài chính là khả năng tự phục hồi của hệ thống ngân hàng khi gặp khủng hoảng do gặp một vấn đề nào đó mà không phát huy được chức năng của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế. Một ngân hàng có tài chính ổn định nghĩa là có khả năng phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả, đánh giá và quản lý được rủi ro. Khi hệ thống ngân hàng ở trạng thái ổn định sẽ không còn rủi ro trong việc mất cân đối tài chính do các yếu tố chủ quan và khách quan đem lại. Thật vậy, ở trạng thái ổn định tài chính, hệ thống ngân hàng có khả năng tự phục hồi thông qua các cơ chế tự khắc phục để ngăn chặn các yếu tố bất lợi có ảnh hưởng đến nền kinh tế. Sự ổn định tài chính rất quan trọng cho tăng trưởng kinh tế vì phần lớn các giao dịch trong nền kinh tế thực được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Chỉ số đại diện thường được sử dụng để đo lường sự ổn định tài chính của ngân hàng là Tỷ lệ chất lượng tài sản (Asset quality ratios): Chất lượng tài sản là một yếu tố quan trọng quyết định rủi ro do đó, khi đánh giá được chất lượng tài sản thì sẽ nhận biết được mức độ ổn định tài chính của doanh nghiệp. Trong trường hợp ngân hàng, thông qua việc đánh giá rủi ro tín dụng mà cụ thể là tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng sẽ biết được tình hình tài chính của ngân hàng như thế nào. Nếu tỷ lệ nợ xấu cao, nghĩa là chất lượng sử dụng tài sản của ngân hàng không hiệu quả, tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh của ngân hàng không ổn định. Đặc biệt là tỷ lệ nợ xấu kéo dài qua các năm thì khả năng mất ổn định tài chính rất cao.

2.1.2 Tăng trưởng kinh tế

2.1.2.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ của mỗi quốc gia để thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước. Do vậy, tăng trưởng kinh tế luôn là vấn đề cho các nhà kinh tế học nghiên cứu từ trước đến nay và đã có rất nhiều học thuyết về tăng trưởng kinh tế ra đời. Tuy nhiên, khái niệm về tăng trưởng kinh tế lại có rất nhiều định nghĩa khác nhau:

Theo Ngân hàng thế giới, tăng trưởng kinh tế là sự thay đổi sản lượng đầu ra hoặc trong chi tiêu hoặc thu nhập của người dân của đất nước đó.

Theo Simon Kuznet (1996), tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng bền vững về sản phẩm tính theo đầu người.

Theo Douglass C.North và Robert Paul Thomas (1973), tăng trưởng kinh tế xảy ra nếu sản lượng tăng nhanh hơn dân số.

Theo Blanchard (2000), tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất bởi nền kinh tế của một quốc gia trong một khoảng thời gian cụ thể hay nói cách khác tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP).

Như vậy, nhìn chung các quan điểm của các nhà khoa học về khái niệm tăng trưởng kinh tế đó là sự gia tăng về quy mô, khối lượng hàng hoá và dịch vụ được tạo ra trong nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Bản chất của tăng trưởng phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Sự thay đổi về lượng của nền kinh tế được thể hiện ở sự tăng lên về qui mô và tốc độ.

2.1.2.2 Đo lường tăng trưởng kinh tế

Mối quan hệ giữa các nhân tố vốn và lao động với tổng sản lượng của nền kinh tế luôn là vấn đề trung tâm của lý thuyết về tăng trưởng. Tổng sản lượng hay tổng thu nhập của một quốc gia được xác định bằng tổng thu nhập của yếu tố lao động và vốn của quốc gia đó và phụ thuộc vào mức độ sử dụng hiệu quả các nguồn lực này. Sự gia tăng qui mô sản xuất, hay sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào sự gia tăng tổng lượng vốn, lao động và tăng năng suất của các tài sản này. Như vậy, nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế xuất phát từ hai quá trình cơ bản là:

- Sự tích lũy các yếu tố sản xuất: sự gia tăng qui mô của tổng lượng vốn và lực lượng lao động.

- Tăng năng suất: sự gia tăng sản lượng do tăng hiệu quả sử dụng các nhân tố vốn và lao động hay nâng cao trình độ công nghệ.

Sự ảnh hưởng của tích lũy nhân tố sản xuất và tăng năng suất đến sản lượng và tăng trưởng kinh tế được nghiên cứu thông qua hàm sản xuất, xác định cách thức kết hợp các yếu tố đầu vào vốn và lao động để sản xuất ra các mức sản lượng đầu ra khác nhau. Khi nền kinh tế tích lũy thêm vốn và lao động, sản lượng sẽ tăng, nền kinh tế tăng trưởng. Mặt khác, khi các yếu tố sản xuất (vốn và lao động) được sử dụng hiệu quả hơn hay khi trình độ công nghệ được tăng lên thì việc tăng lượng vốn trên mỗi lao động sẽ tạo ra nhiều sản lượng hơn. Như vậy, các nhân tố kinh tế ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế bao gồm :

- Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung bao gồm nguồn vốn (K), nguồn lao động (L), nguồn tài nguyên thiên nhiên (R) và công nghệ kỹ thuật (T). Trong lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại chỉ đề cập đến 3 nhân tố tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh

tế là nguồn vốn (K), nguồn lao động (L) và năng suất yếu tố tổng hợp (TFP). Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) về bản chất là sự đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của hiệu quả, công nghệ và các yếu tố khác tác động tới năng suất. Năng suất các nhân tố tổng hợp chịu tác động bởi chất lượng lao động; sự thay đổi nhu cầu hàng hóa, dịch vụ; sự thay đổi cơ cấu kinh tế; sự thay đổi cơ cấu vốn và tiến bộ kỹ thuật.

- Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu: Tổng cầu là yếu tố trực tiếp tác động đến đầu ra của nền kinh tế bao gồm tiêu dùng của dân cư (C), chi tiêu của Chính phủ (G), đầu tư của các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế (I) và xuất nhập khẩu ròng (NX).

Về chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế thường được đo lường thông qua tổng sản phẩm trong nước (GDP - Gross Domestic Product) hoặc Tổng sản phẩm quốc dân (GNP - Gross National Product).

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trên phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm trong nước là chỉ tiêu phản ánh năng lực sản xuất của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định.

Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà công dân của một nước tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). GNP loại trừ hàng hóa trung gian hay hàng hóa được sử dụng để sản xuất ra những hàng hóa khác. GNP tính đến sản lượng do công dân của một quốc gia tạo ra, bao gồm cả giá trị hàng hóa và dịch vụ do những công dân của quốc gia đó sống ở nước ngoài tạo ra. Tổng sản phẩm quốc dân phản ánh tiềm năng tiêu dùng và tiết kiệm của nền kinh tế.

Về phương pháp đo lường tăng trưởng kinh tế

- Quy mô tăng trưởng: Lượng tăng tuyệt đối về sản lượng để xác định qui mô tăng trưởng trong từng thời kỳ nhất định: Y = Yt – Y0 (2.1) Trong đó : Y : Mức gia tăng GDP (GNP)

Yt : GDP (GNP) kỳ t

Y0 : GDP (GNP) kỳ gốc

- Tốc độ tăng trưởng: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm cho phép so sánh sự tăng trưởng của nền kinh tế giữa các thời kỳ khác nhau.

g

Y*100%

y Y 0

(2.2)

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/10/2023