các khu vực, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyên môn hoá các ngành nghề.
Hoạt động sôi động của các TĐTC góp phần làm cho cơ cấu sản xuất có sự chuyển dịch từ hàng hoá sử dụng sức lao động sang hàng hoá cần nhiều vốn và công nghệ, tập trung vào những sản phẩm có giá trị bổ sung cao. Cơ cấu ngành cũng có sự thay đổi, chuyển từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp chế tạo – dịch vụ. Khu vực dịch vụ ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế.
Như vậy, đối với thị trường thế giới, các tập đoàn có vai trò chi phối ngày càng lớn không chỉ đối với quốc gia mà còn đối với cả nền kinh tế quốc tế.
4. Điều kiện hình thành Tập đoàn tài chính
4.1 Điều kiện khách quan
Môi trường pháp lý có thể cản trở hoặc thúc đẩy sự hình thành và phát triển các TĐTC nhất là những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán. Nói cách khác, quá trình hình thành và phát triển TĐTC diễn ra theo quy luật khách quan, nhưng các chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quy định và chính sách phát triển dịch vụ tài chính.
Trình độ phát triển của thị trường dịch vụ tài chính tác động đến khả năng mở rộng quy mô hoạt động của TĐTC như thông qua các công ty con hay công ty trực thuộc. Trên thực tế, sự hình thành các TĐTC thường bắt nguồn từ việc mở rộng các loại hình kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ của ngân hàng mẹ, từ chỗ chỉ kinh doanh dịch vụ ngân hàng, mở rộng sang dịch vụ bảo hiểm, chứng khoán, v.v. Mặt khác, thị trường tài chính càng phát triển, khách hàng càng đòi hỏi cao hơn về chất lượng và tiện ích của dịch vụ tài chính - ngân hàng.
Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cũng là yếu tố và điều kiện để một tổ chức tài chính phát triển thành TĐTC. Các tập đoàn này phải kịp thời nắm bắt thông tin, nhất là công nghệ mới có liên quan đến hoạt động tài chính để có thể khai thác và ứng dụng các thành tựu công nghệ mới vào hoạt động kinh doanh, mang lại nhiều lợi nhuận cho tập đoàn và tiện ích cho khách hàng.
4.2 Điều kiện về vốn
Tiềm lực tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hoạt động và khả năng phát triển lâu dài của tập đoàn. Trong đó, nguồn vốn có tác dụng hỗ trợ cho tập đoàn đổi mới công nghệ, mở rộng lĩnh vực kinh doanh, phát triển dịch vụ mới, tăng cường năng lực cạnh tranh và mở rộng thị phần. Các ngân hàng tiên tiến và TĐTC mạnh thường cung cấp dịch vụ đa dạng và đạt chất lượng cao với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau.
4.3 Điều kiện về con người
Hiệu quả hoạt động của TĐTC phụ thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực của đội ngũ nhân viên, nhất là đội ngũ lãnh đạo. TĐTC có quy mô lớn và độ phức tạp càng cao càng đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành thực sự có năng lực, trình độ cao, phong cách lãnh đạo và phẩm chất đạo đức tốt để quản lý điều hành bộ máy của tập đoàn hoạt động có hiệu quả. Không chỉ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đội ngũ nhân viên không ngừng được trau dồi nghiệp vụ, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân và nếu được tạo mọi điều kiện tốt nhất thì đây là lực lượng lớn đóng góp vào thành công của tập đoàn.
4.4 Về quản trị doanh nghiệp
Để kiểm soát khối tài sản và vốn chủ sở hữu khá lớn, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, các TĐTC trên thế giới đều chú trọng đến vấn đề quản trị doanh nghiệp, coi quản trị doanh nghiệp tốt là vấn đề sống còn của tập đoàn.
Hầu hết các TĐTC hàng đầu đều xây dựng một cơ cấu tổ chức phức tạp, bao gồm bộ phận kinh doanh và bộ phận hỗ trợ.
Bộ phận kinh doanh được chia thành các mảng chuyên môn chính phù hợp với việc cung cấp các sản phẩm tài chính, ngân hàng, bảo hiểm đa dạng như cấp tín dụng, tư vấn, dịch vụ, bảo hiểm, quản lý tài sản, quản lý tài chính, dịch vụ ngân hàng điện tử… ra thị trường.
Bộ phận hỗ trợ gồm có quản trị rủi ro, tài chính, tác nghiệp và công nghệ thông tin. Trong đó, tất cả các bộ phận được quản trị thống nhất, tập trung theo ngành dọc, đứng đầu là chủ tịch tập đoàn, sau đó là các giám đốc phụ trách khối. Cách thức quản lý này cho phép TĐTC, dù có quy mô lớn và cơ cấu phức tạp đến đâu và dù có bất cứ sự thay đổi nào cũng vẫn duy trì hoạt động ổn định, giảm thiểu rủi ro.
5. Cơ chế quản lý Tập đoàn tài chính
Đặc điểm của TĐTC thường là lấy ngân hàng cỡ lớn làm hạt nhân của tập đoàn để liên kết và khống chế các doanh nghiệp xung quanh bằng mối quan hệ nắm giữ cổ phần, cho vay vốn và sắp xếp nhân sự. Mô hình phổ biến nhất của TĐTC là tổ chức theo kiểu công ty mẹ - công ty con. Trong đó, công ty mẹ và công ty con đều có tư cách pháp nhân độc lập, có tài sản và bộ máy quản lý riêng. Giao dịch giữa công ty mẹ và công ty con hay giữa các công ty con trong cùng một tập đoàn là giao dịch bên ngoài, giao dịch thị trường.
Đặc điểm của mô hình này là công ty mẹ (Holding company) sở hữu toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định vốn cổ phần trong các công ty con, đề ra chiến lược và định hướng phát triển tổng thể của tập đoàn, đồng thời phân bổ nguồn lực của tập đoàn thông qua các hoạt động tài chính như phát hành, mua bán chứng khoán, cơ cấu lại tài sản của công ty con. Ngoài ra, công ty mẹ còn sử dụng vốn của mình để đầu tư, góp vốn cổ phần, liên doanh, liên kết dể hình thành các công ty con hoặc công ty liên kết.
Công ty con là công ty mà một số cổ phần của nó ở trên mức tỷ lệ nhất định thuộc về một công ty khác hoặc bị một công ty khác khống chế, đó là công ty mẹ. Tuy thế nhưng công ty con vẫn là những pháp nhân độc lập, hoạt động tự chủ và tự chịu trách nhiệm. Hình thức pháp lý của công ty con khá đa dạng, có thể là công ty cổ phần do công ty mẹ nắm giữ cổ phần chi phối; công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) 2 thành viên trở lên, trong đó công ty mẹ giữ tỷ lệ vốn góp chi phối; công ty liên doanh với nước ngoài do công ty mẹ nắm giữ tỷ lệ vốn góp chi phối; công ty TNHH một thành viên do công ty mẹ là chủ sở hữu.
Căn cứ vào tính chất phạm vi hoạt động, TĐTC kinh doanh theo mô hình công ty mẹ - công ty con có hai loại: Mô hình công ty mẹ nắm vốn thuần tuý và mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn vừa trực tiếp kinh doanh. Trên thực tế, không có sự tách bạch rõ ràng, nhiều tập đoàn kinh doanh theo mô hình công ty mẹ - công ty con là hỗn hợp của hai loại hình trên, tức là công ty mẹ vừa nắm vốn vừa trực tiếp kinh doanh một số công ty con, đồng thời chỉ nắm vốn thuần tuý một số công ty con khác.
Bảng 3:Mô hình tổ chức quản lý của tập đoàn ở một số nước
CHLB Đức Mỹ
Hội đồng quản trị
Ban điều hành
Đối nội | Đối ngoại | ||
H | ĐQ | ||
Các giám đốc | Các giám đốc |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu hoạt động của một số tập đoàn tài chính trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam - 2
- Một Số Mô Hình Tập Đoàn Kinh Tế Của Các Nước Trên Thế Giới
- Tập Đoàn Tài Chính Có Phạm Vi Hoạt Động Rộng Lớn
- Xu Hướng Hình Thành Tập Đoàn Tài Chính Ở Việt Nam Hiện Nay
- Triển Vọng Xây Dựng Tập Đoàn Tài Chính – Ngân Hàng Ở Việt Nam
- Vài Nét Về Hoạt Động Kinh Doanh Của Citibank
Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.
Các biện pháp quản lý
Các biện pháp quản lý
- Lợi ích chủ đầu tư
- Lợi ích người lao động
- Lợi ích của 1 phía chủ đầu tư
- Có thể bổ sung lợi ích người lao động
Uỷ quyền Uỷ quyền
đại diện
đại diện
Các biện pháp quản lý
B
GĐ
Ban giám đốc
Hội đồng quản trị
Ban giám sát
Các biện pháp quản lý
Mục tiêu
Mục tiêu
Mục tiêu
Mục tiêu
Nhật Bản Trung Quốc
- Lợi ích gia đình
- Lợi ích quốc gia
- Lợi ích quốc gia
- Lợi ích chủ đầu tư
- Lợi ích người lao động
CHƯƠNG II: KHẢ NĂNG VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH TRÊN THẾ GIỚI VÀO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH VIỆT NAM
I. Tổng quan về Tập đoàn tài chính ở Việt Nam
1. Tổng quan sự ra đời Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
1.1 Hoạt động của các Tổng công ty 90, 91
Trên cơ sơ tổng kết tình hình hoạt động của hơn 250 Tổng công ty, liên hiệp xí nghiệp được thành lập năm 1991, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 90/TTg và Quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994. Quyết định số 90/TTg là quyết định về việc tiến hành sắp xếp, thành lập và đăng ký lại các liên hiệp xí nghiệp, Tổng công ty (Tổng công ty 90). Bên cạnh đó, nhà nước cũng muốn tạo điều kiện thúc đẩy tích tụ và tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời thực hiện chủ trương xoá bỏ dần chế độ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt doanh nghiệp trung ương, doanh nghiệp địa phương và tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, ngày 7/3/1994, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 91/TTg về thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh (Tổng công ty 91). Theo các quyết định này đã có một loạt các Tổng công ty và tập đoàn kinh doanh nhà nước đã ra đời như: Tổng công ty Bưu chính viễn thông, Dầu khí, Dệt may, Hoá chất, Điện lực, Than, Thép, Xi măng,… Năm 1995, mô hình và cơ chế hoạt động của Tổng công ty chính thức được đưa vào Luật Doanh nghiệp nhà nước.Đến cuối tháng 2/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập 17 Tổng công ty 91 và uỷ quyền cho các bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Tổng công ty 90.
Mục tiêu của mô hình Tổng công ty nhà nước là nhằm xoá bỏ cơ chế chủ quản hành chính, tách hẳn quản lý sản xuất kinh doanh ra khỏi quản lý nhà nước, từ đó nhằm tăng cường tính cạnh tranh của các doanh nghiệp thông qua việc tạo ra sự hiệp lực cùng có lợi và đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mô bằng việc tập trung nguồn lực cho các lĩnh vực tài chính, công nghệ, tiếp thị và chiến lược phát triển. Ban đầu, các Tổng công ty được thành lập từ việc sắp xếp các liên hiệp xí nghiệp mang tính chất cơ học, không xáo trộn, bảo đảm điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động bình thường. Trong quá trình hoạt động các Tổng công ty đã từng bước thiết lập các mối liên kết về vốn hoặc đầu tư vốn giữa các doanh nghiệp có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, cung ứng, tiêu thụ, dịch vụ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính, nhằm tăng cường khả năng kinh doanh của các đơn vị thành viên và thực hiện các nhiệm vụ của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ và chỉ rõ cơ chế hoạt động của các loại thành viên của Tổng công ty.
Các Tổng công ty nhà nước có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế, tạo đà phát triển và góp phần không nhỏ tạo nên những khởi sắc của nên kinh tế Việt Nam trong thời gian qua. Các Tổng công ty này đã và đang tiếp tục chi phối nhiều ngành, nhiều lĩnh vực then chốt của nền kinh tế (như Tổng công ty Dầu khí, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông, Tổng công ty Hàng không…); là đầu mối xuất khẩu ở hầu hết những ngành có kim ngạch xuất cao (như Tổng công ty Dệt may, Tổng công ty Thủy sản…); đồng thời góp phần không nhỏ trong việc bình ổn giá cả một số mặt hàng nhạy cảm, trọng yếu, có ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế xã hội của đất nước (như Tổng công ty Lương thực, Tổng công ty Xăng dầu, Tổng công ty Xi măng, Tổng công ty Thép…). Nhiều Tổng công ty đã trở thành tổng thầu các công trình công nghiệp lớn và có những mặt hàng chất lượng cao có khả năng cạnh tranh với sản phẩm cùng loại trong khu vực.
Trong giai đoạn vừa qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn do những biến động của thị trường thế giới và một số điều kiện không thuận lợi, nhưng nhìn chung, các Tổng công ty nhà nước vẫn đạt kết quả kinh doanh khá. Chỉ tính riêng trong năm 2003, doanh thu các Tổng công ty 91 đạt 202.652 tỷ đồng chiếm 43,66% tổng doanh thu của khối các doanh nghiệp nhà nước - bộ phận doanh nghiệp chủ đạo trong nền kinh tế. Lợi nhuận các Tổng công ty này tạo ra là 14.592,2 tỷ đồng bằng 71% tổng lợi nhuận của các doanh nghiệp nhà nước và đóng góp vào ngân sách nhà nước 36.916,5 tỷ đồng, chiếm 42,55% tổng doanh thu ngân sách từ khối doanh nghiệp nhà nước. Những con số trên đã thể hiện phần nào những đóng góp đáng kể và vai trò quan trọng các các Tổng công ty nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam.
Quá trình hình thành và phát triển của các Tổng công ty đã có tác dụng tích cực như: Thúc đẩy việc tích tụ và tập trung vốn, đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh; Tập trung nguồn lực phát triển theo chiến lược định hướng chung; Tăng cường sức mạnh trong việc tham gia đấu thầu, mở rộng thị trường; Bảo lãnh vay tín dụng, điều hoà vốn nhàn rỗi giữa các doanh nghiệp thành viên; Hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên còn có khó khăn thông qua việc điều động cán bộ, chuyển giao công nghệ… Các Tổng công ty 90, 91 từ phương thức quản lý theo kiểu hành chính (cấp trên - cấp dưới) và cơ chế giao vốn đã chuyển sang mối quan hệ bình đẳng, tự nguyện và cơ chế đầu tư vốn.
1.2 Sự chuyển đổi từ các Tổng công ty 90, 91 sang Tập đoàn kinh tế theo mô hình Công ty mẹ – Công ty con
Sau nhiều năm hoạt động, mặc dù các Tổng công ty đã phát huy tích cực, nhưng có một thực tế hiện nay là các Tổng công ty nhà nước hoạt động chưa thực sự hiệu quả, chưa phát huy hết tiềm năng của mình và bộc lộ nhiều hạn chế, cụ thể như sau: