Ngoài ra, hệ thống TKKT doanh nghiệp phải được thiết kế khoa học giữa các loại TK, khoa học, logic về trật tự sắp xếp các nhóm TK nhằm thuận tiện cho việc thu thập thông tin để lập BCTC, đảm bảo các thông tin được cung cấp có tính so sánh cao.
Mặt khác, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và thông tin, các thành tựu của khoa học công nghệ thông tin ngày càng được ứng dụng rộng rãi ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế trong đó có kế toán, hệ thống TKKT doanh nghiệp phải được xây dựng và thiết kế hết sức đơn giản, rõ ràng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận dụng công nghệ thông tin vào công tác kế toán nhằm nâng cao hiệu suất của công tác kế toán và tính hữu ích của thông tin kế toán.
Từ những quan điểm nêu trên, luận án sẽ đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần từng bước để xây dựng và hoàn thiện hệ thống TKKT hiện hành áp dụng trong các doanh nghiệp SXKD ở Việt Nam theo hướng Nhà nước quy định các nội dung cụ thể là:
(1) Sửa đổi, bổ sung hệ thống TKKT áp dụng cho các doanh nghiệp SXKD về thứ tự và tên gọi của loại TK, thứ tự và tên gọi của nhóm TK trong từng loại TK, nguyên tắc, kết cấu, nội dung phản ánh và phương pháp kế toán các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu đối với các nhóm TK thuộc loại để áp dụng thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp SXKD. Các doanh nghiệp được chủ động mở các TK cấp 1, các TK cấp 2, cấp 3… trong nhóm thuộc loại để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại doanh nghiệp mình theo quy định, hoặc mở chi tiết các đoạn mã (nếu doanh nghiệp thực hiện hình thức kế toán máy và đây cũng là xu thế chung mà các hãng phần mềm lớn đang triển khai xây dựng cho các tập đoàn kinh tế lớn hiện nay). Theo đó doanh nghiệp tự xây dựng hệ thống TKKT trên cơ sở hệ thống TKKT do Nhà nước quy định thống nhất loại và nhóm TK để áp dụng phải đảm bảo có đủ thông tin cho việc lập và trình bày BCTC theo yêu cầu của CMKT, CĐKT doanh nghiệp và các quy định pháp lý có liên quan, đồng thời để đảm có đủ thông tin theo yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Đồng thời, việc hoàn thiện hệ thống TKKT áp dụng trong các doanh nghiệp SXKD phải đảm bảo giải quyết được mối quan hệ để
có đủ cơ sở để lập các chỉ tiêu trên BCTC và việc sắp xếp, phân loại các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính (BCTC) và tình hình kinh doanh (báo cáo KQHĐKD), đồng thời phải đảm bảo cho doanh nghiệp phản ánh được đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế đã, đang và sẽ phát sinh thông qua phương pháp TKKT.
Việc hoàn thiện hệ thống TKKT như đã nêu trên nhằm phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam và phù hợp dần với thông lệ của các nước đã và đang phát triển. Ở nhiều nước phát triển, Nhà nước không ban hành một hệ thống TKKT thống nhất mang tính pháp qui mà cho phép các doanh nghiệp dựa trên các CMKT và các quy định pháp lý có liên quan được xác định là khuôn khổ lập và trình bày BCTC để tự thiết lập hệ thống TKKT phù hợp với đặc điểm kinh doanh để có đủ thông tin cho việc lập và trình bày BCTC và báo cáo quản trị.
(2) Cần yêu cầu doanh nghiệp phải tuân thủ khi mở các TK trong nhóm TK hoặc đoạn mã chi tiết như sau:
- Cung cấp đủ thông tin, số liệu theo yêu cầu của kế toán tài chính làm cơ sở cho việc lập và trình bày BCTC theo quy định hiện hành và khi có bổ sung, sửa đổi các CMKT, CĐKT doanh nghiệp, trong đó bao gồm cả các thông tin để thuyết minh BCTC chi tiết các chỉ tiêu tổng hợp đã trình bày trên BCĐKT và báo cáo KQHĐKD và thuyết minh theo yêu cầu của từng CMKT.
Có thể bạn quan tâm!
- Phân Loại Dn Đã Khảo Sát Theo Tiêu Chí Sở Hữu Và Thành Phần Kinh Tế
- Về Độ Linh Hoạt Của Hệ Thống Tài Khoản
- Thảo Luận Kết Quả Nghiên Cứu Về Hệ Thống Tài Khoản Kế Toán Hiện Hành Áp Dụng Trong Các Doanh Nghiệp Sản Xuất - Kinh Doanh Ở Việt Nam
- Nghiên cứu hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh ở Việt Nam - 14
- Xây Dựng Và Hoàn Thiện Các Tài Khoản Loại 2 "tài Sản Dài Hạn"
- Xây Dựng Và Hoàn Thiện Các Tài Khoản Loại 4 "nguồn Vốn Chủ Sở Hữu"
Xem toàn bộ 228 trang tài liệu này.
- Cung cấp đủ thông tin cần thiết theo yêu cầu kế toán quản trị phù hợp với từng doanh nghiệp.
- Việc mở các TK trong nhóm của từng loại TK hoặc đoạn mã chi tiết phải trên cơ sở hệ thống TKKT thống nhất về loại và nhóm TK áp dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp SXKD do Bộ Tài chính quy định và phù hợp với đặc điểm tổ chức quản lý, phân cấp quản lý tài chính và tổ chức công tác kế toán của doanh nghiệp, tập đoàn, tổng công ty.
- Doanh nghiệp, tập đoàn, tổng công ty phải xây dựng tài liệu bằng văn bản các nội dung có liên quan đến toàn bộ các TK trong nhóm hoặc đoạn mã chi tiết để hướng dẫn triển khai áp dụng thống nhất trong toàn đơn vị. Tài liệu này là cơ sở cho
việc kiểm tra, giám sát tình hình triển khai thực hiện trong nội bộ doanh nghiệp, tập đoàn, tổng công ty và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
4.2. Giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán hiện hành áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh ở Việt Nam
Trong chương ba, tác giả đã đánh giá những ưu điểm và những tồn tại của hệ thống TKKT doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam. Từ thực trạng này, hệ thống TKKT doanh nghiệp hiện hành sẽ được nghiên cứu và hoàn thiện theo giải pháp cụ thể như sau, nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi hệ thống TKKT hiện hành áp dụng trong các doanh nghiệp SXKD ở Việt Nam.
Cơ sở để xây dựng và hoàn thiện hệ thống TKKT hiện hành áp dụng cho các doanh nghiệp SXKD là Luật Kế toán (năm 2003), CMKT Việt Nam (VAS), CMKT quốc tế (IAS), CĐKT doanh nghiệp, vào tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện tại và tương lai,
... Trên thực tế, toàn bộ 26 CMKT Việt Nam đã ban hành theo 5 đợt từ năm 1999 đến 2001 được xây dựng dựa theo CMKT quốc tế. Cho đến nay, các CMKT quốc tế đã được bổ sung, sửa đổi đồng thời có các CMKT mới ban hành. Những năm qua có rất nhiều thay đổi quan trọng trong công tác kế toán và BCTC, các tổ chức ban hành CMKT quốc tế đang cố gắng hài hoà các nguyên tắc kế toán được thừa nhận của Mỹ (USGAAP) và các Chuẩn mực lập và trình bày BCTC quốc tế (IFRS). Liên minh Châu Âu đang yêu cầu tất cả các công ty được niêm yết của các nước là thành viên của EU phải áp dụng IFRS trước năm 2005 và nhiều quốc gia ban hành CMKT quốc gia của mình theo hướng gần với IFRS. Ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường còn đang trong quá trình chuyển đổi, khu vực doanh nghiệp nhà nước còn chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế, mối quan hệ giữa CMKT với pháp luật về thuế và cơ chế tài chính còn mang nhiều nét đặc thù, lại đòi hỏi phải xây dựng, ban hành CMKT không xảy ra xung đột về mặt pháp lý với những quy định trong các Luật thuế và chính sách tài chính trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. CMKT Việt Nam không quy định các nội dung mà nền kinh tế Việt Nam chưa có hoặc chưa đạt đến trình độ tiếp cận, chưa phát sinh hoặc chưa trở thành phổ biến ở Việt
Nam. Vì thế, chỉ nên đưa vào chuẩn mực những vấn đề chung, có tính chất bao trùm và những nội dung mà Việt Nam đã có quy định phù hợp hoặc căn bản phù hợp với nội dung của IFRS. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chúng ta sẽ từng bước sửa đổi, bổ sung các CMKT đã ban hành đồng thời nghiên cứu, công bố thêm các CMKT cho phù hợp. Vì vậy Bộ Tài chính cần phải nghiên cứu đồng bộ tất cả các CMKT quốc tế, để có định hướng các nội dung cần bổ sung, sửa đổi trong các CMKT đã ban hành và ban hành mới các CMKT cho phù hợp với CMKT quốc tế và phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Nhiều nội dung quá khác biệt với CMKT quốc tế cần phải cập nhật ngay để có hướng dẫn về phương pháp kế toán cho phù hợp, như: nội dung về kế toán trái phiếu chuyển đổi, xử lý chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh trong giai đoạn đầu tư XDCB trước hoạt động, …
Với mục tiêu hoàn thiện hệ thống TKKT phù hợp với thực tiễn tại các doanh nghiệp SXKD trước xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các giải pháp mà tác giả luận án đề xuất sau đây được xây dựng dựa trên quan điểm: Nhà nước xây dựng một hệ thống TKKT thống nhất mang tính “mở” trên cơ sở CMKT; trong đó, chỉ bao gồm các loại và nhóm TK cùng với hướng dẫn chung về nội dung phản ánh, các doanh nghiệp được phép chủ động xây dựng, lựa chọn, bổ sung thêm các TKKT các cấp (cấp 1, cấp 2,...) sao cho phù hợp với hoạt động kinh doanh cụ thể và yêu cầu quản lý của đơn vị mình trên cơ sở tuân thủ các qui định chung của CĐKT và CMKT. Hệ thống TKKT này được áp dụng chung cho tất cả doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu, mọi qui mô, mọi lĩnh vực kinh doanh.
4.2.1. Thống nhất loại và nhóm tài khoản
Để thực hiện quan điểm hoàn thiện hệ thống TKKT áp dụng trong các doanh nghiệp SXKD theo hướng bắt buộc áp dụng và linh hoạt vận dụng, đối với phần bắt buộc phải áp dụng thống nhất về loại TK, nhóm TK trong loại để đáp ứng yêu cầu của kế toán tài chính trong Luật Kế toán (Điều 4 khoản 2) là doanh nghiệp phải thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính bằng BCTC cho đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin. Theo đó, Nhà nước cần phải quy định cụ thể, rõ ràng về thứ tự và tên gọi loại TK, thứ tự và tên gọi nhóm TK trong loại,
kết cấu và nội dung phản ánh, nguyên tắc và phương pháp kế toán các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu được phản ánh trong từng nhóm, từng loại để làm cơ sở cho các doanh nghiệp triển khai áp dụng thống nhất. Hệ thống TKKT cần phải có đầy đủ các loại TK, nhóm TK như quy định hiện hành và có bổ sung, sửa đổi phù hợp làm cơ sở cho việc lập BCĐKT (bao gồm các loại TK để phản ánh tình hình tài chính) và báo cáo KQHĐKD (bao gồm các loại TK để phản ánh tình hình kinh doanh). Đồng thời trong phần nguyên tắc kế toán của từng loại TK và từng nhóm TK, cần quy định doanh nghiệp phải chi tiết TK các cấp để có đủ thông tin làm cơ sở cho việc lập BCTC và báo cáo kế toán quản trị theo yêu cầu của các CMKT có liên quan và theo yêu cầu của chế độ BCTC và yêu cầu quản trị doanh nghiệp. Ví dụ: (i) Đối với nhóm TK các khoản phải thu, chi tiết phải thu của khách hàng và nhóm TK nợ ngắn hạn, chi tiết phải trả người bán, Nhà nước cho phép doanh nghiệp hạch toán chi tiết các TK theo từng đối tượng. Trong từng đối tượng doanh nghiệp cần chi tiết số phải thu, phải trả và tình hình thanh toán theo 3 loại: Hoạt động kinh doanh, đầu tư và hoạt động tài chính để cơ sở lập BCLCTT. Cuối kỳ kế toán số dư Nợ, dư Có chi tiết của từng đối tượng phải phân theo hai loại tài sản, nợ phải trả ngắn hạn và tài sản, nợ phải trả dài hạn để làm cơ sở lập BCĐKT và Thuyết minh BCTC; (ii) Đối với tài khoản doanh thu, doanh nghiệp hạch toán chi tiết TK các cấp theo từng loại doanh thu để làm cơ sở lập báo cáo KQHĐKD và Thuyết minh BCTC theo yêu cầu của CMKT, CĐKT doanh nghiệp và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp…
Đối với phần chủ động và linh hoạt, để tăng cường tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp và đáp ứng yêu cầu của kế toán quản trị quy định trong Luật Kế toán (Điều 4 khoản 2) là doanh nghiệp phải thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ doanh nghiệp. Nhà nước không quy định mà cho phép doanh nghiệp hạch toán chi tiết TKKT các cấp trong từng loại, từng nhóm TK cho phù hợp với đặc điểm kinh doanh, tổ chức quản lý, đặc điểm phân cấp quản lý tài chính và tổ chức công tác kế toán trong từng doanh nghiệp. Theo đó, để đáp ứng 2 yêu cầu: (i)
Có đủ thông tin để lập BCTC theo quy định của CMKT, CĐKT doanh nghiệp theo yêu cầu của kế toán tài chính; (ii) Có đủ thông tin để đáp ứng yêu cầu quản lý trong nội bộ doanh nghiệp theo yêu cầu của kế toán quản trị.
Đồng thời, Nhà nước cần quy định các Tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty có các doanh nghiệp thành viên trực thuộc hạch toán độc lập (là các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp) thì việc xây dựng các TK cấp 1 trong nhóm thuộc loại và chi tiết các TK cấp 2, cấp 3, …phải được thống nhất trong nội bộ Tập đoàn hoặc trong Tổng công ty nhằm thuận tiện trong việc hợp nhất BCTC.
Hệ thống TKKT áp dụng cho các doanh nghiệp SXKD theo quy định hiện hành cần được chia thành 7 loại TK. Trong đó, các TK từ loại 1 đến loại 4 bao gồm nhóm các TK phản ánh tài sản, nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu nên có số dư cuối kỳ và làm cơ sở để lập BCĐKT nhằm phản ánh thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các TK từ loại 5 đến loại 7 bao gồm nhóm các TK phản ánh chi phí SXKD, doanh thu, thu nhập khác, chi phí khác và xác định kết quả kinh doanh nên không có số dư cuối kỳ, số phát sinh trong kỳ của nhóm các TK này là cơ sở để lập báo cáo KQHĐKD nhằm phản ánh quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Các loại TK này được hoàn thiện trên cơ sở kế thừa các quy định hiện hành, đồng thời sửa đổi, bổ sung nội dung phản ánh trên một số TK trong các nhóm TK. Với quan điểm như trên thì hệ thống TKKT áp dụng trong các doanh nghiệp SXKD sẽ bao gồm 7 loại TK với các nhóm TK trong từng loại TK được trình bày tại phụ lục số 8.
4.2.2. Xây dựng và hoàn thiện các tài khoản loại 1 "Tài sản ngắn hạn"
Tài sản ngắn hạn bao gồm những tài sản có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trong vòng một chu kỳ kinh doanh bình thường hoặc trong một năm tài chính. Để phục vụ cho việc thu thập thông tin khi lập BCTC, các TK phản ánh tài sản ngắn hạn được chia thành các nhóm TK như sau: (i) Nhóm TK Tiền và tương đương tiền, (ii) Nhóm TK Đầu tư tài chính ngắn hạn, (iii) Nhóm TK Phải thu ngắn
hạn, (iv) Nhóm TK Hàng tồn kho, (v) Nhóm TK Tài sản ngắn hạn khác, (vi) Nhóm TK Dự phòng giảm giá tài sản ngắn hạn.
(1) Nhóm TK 11 - Tiền và tương đương tiền:
Tiền và tương đương tiền là tài sản tồn tại trực tiếp dưới hình thái tiền tệ hoặc tương đương, bao gồm tiền tại quỹ, các khoản tiền gửi không kỳ hạn và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn thảo mãn qui định về tương đương tiền. Nhóm TK này về cơ bản có nội dung hạch toán như theo quy định hiện hành và tác giả có đề xuất sửa đổi một số nội dung như sau:
- Kế toán tiền:
Kế toán tiền sẽ gồm các TK phản ánh tiền mặt và tiền gửi ngân hàng, trong đó chỉ bao gồm các loại tiền sử dụng để thanh toán như tiền Việt Nam, ngoại tệ và vàng tiền tệ mà không bao gồm các loại kim khí quý, đá quý như hiện hành. Điều này là hoàn toàn phù hợp với thực tế vì hầu như không có doanh nghiệp nào sử dụng các loại kim khí quý, đá quý để thanh toán. Đối với các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh mua các loại kim khí quý, đá quý với mục đích bán ra thì hạch toán vào nhóm TK 15 - Hàng tồn kho (chi tiết TK Hàng hóa) hoặc như mua các loại kim khí quý, đá quý làm nguyên vật liệu để sản xuất thì phản ánh vào nhóm TK15 - Hàng tồn kho (chi tiết TK Nguyên liệu, vật liệu). Trường hợp doanh nghiệp đầu tư nắm giữ các loại kim khí quý, đá quý chờ tăng giá mới bán được kế toán theo phương pháp giá gốc và phản ánh vào nhóm TK12 - Đầu tư tài chính ngắn hạn (chi tiết TK đầu tư tài chính ngắn hạn khác) hoặc nhóm TK 22 - Đầu tư tài chính dài hạn (chi tiết TK đầu tư tài chính dài hạn khác).
Đối với vàng tiền tệ (là vàng được sử dụng cho mục đích thanh toán trong các giao dịch kinh tế cần được kế toán như một loại ngoại tệ, được quản lý và sử dụng theo quy định của pháp luật hiện hành về quản lý vàng), theo quy định hiện hành của CMKT và CĐKT Việt Nam, toàn bộ các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ phải được đánh giá lại vào thời điểm khi lập BCTC. Do vàng và ngoại tệ đều là một loại tiền tệ nên cần bổ sung quy định toàn bộ các khoản mục tiền tệ, bao gồm giá trị của vàng tiền tệ (tại quỹ hoặc gửi ngân hàng), giá trị các khoản đi vay hoặc
cho vay bằng vàng (hoặc đảm bảo theo giá trị vàng) thì doanh nghiệp phải thực hiện đánh giá lại theo giá trị thị trường tại thời điểm cuối năm tài chính. Sau khi đánh giá lại giá trị của vàng tiền tệ, các khoản đi vay hoặc cho vay bằng vàng, doanh nghiệp phải quy đổi ra Đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch thực tế tại thời điểm cuối năm tài chính. Việc xác định giá trị thị trường của vàng tiền tệ tại thời điểm cuối năm tài chính do Bộ Tài chính quy định (có thể được căn cứ vào giá đóng cửa của các sàn giao dịch vàng quốc tế hoặc giá do Ngân hàng Nhà nước công bố). Khoản chênh lệch giữa giá đánh giá lại cuối kỳ và giá trị ghi sổ của vàng tiền tệ được ghi nhận là doanh thu hoạt động tài chính (nếu lãi) hoặc chi phí tài chính (nếu lỗ). Do đó, cần bổ sung nội dung chênh lệch tăng, giảm do đánh giá lại giá trị vàng tiền tệ vào cuối năm tài chính trong phần kết cấu và nội dung phản ánh của nhóm TK 11 - Tiền và tương đương tiền và các nhóm TK liên quan như nhóm TK 55 - Doanh thu hoạt động tài chính hoặc nhóm TK 65 - Chi phí hoạt động tài chính và nhóm TK 43 - Các khoản chênh lệch.
Một kiến nghị mới của tác giả trong nhóm TK 11 - Tiền và tương đương tiền là loại bỏ hẳn tiền đang chuyển. Cơ sở của quy định này là do hiện đại hoá và cạnh tranh trong các Ngân hàng và các Tổ chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước nên các nghiệp vụ chuyển tiền để thanh toán được các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ của Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước và được thanh toán ngay trong ngày. Đồng thời, qua khảo sát thực tế trên thuyết minh BCTC thì hầu hết các doanh nghiệp đều không có chỉ tiêu tiền đang chuyển và không sử dụng TK này do không phát sinh nghiệp vụ về tiền đang chuyển.
Để đáp ứng yêu cầu quản lý của doanh nghiệp, nhóm TK 11 - Tiền và tương đương tiền có thể mở các TK chi tiết theo địa điểm tồn tại như: TK tiền mặt (tại quỹ), TK tiền gửi (để phản ánh các khoản tiền gửi không kỳ hạn ở Ngân hàng hoặc ở các tổ chức tài chính khác) hoặc mở chi tiết theo từng loại tiền (VNĐ, ngoại tệ, vàng tiền tệ), theo luồng tiền thu chi cho từng loại hoạt động (hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính), ... Đối với TK tiền gửi doanh nghiệp phải