3. Xu hướng tiêu dùng của người Nhật Bản [51]
3.1. Các xu hướng cơ bản trong xã hội Nhật Bản
3.1.1. Tỷ lệ sinh giảm và sự già hóa dân số
Nhật Bản là một đất nước có dân số già nhất thế giới và xu hướng này càng ngày càng trở thành một vấn đề xã hội đối với Nhật Bản. Hiện nay, 1/5 người Nhật là trên 65 tuổi và tỷ lệ nhóm tuổi này dự kiến sẽ vượt quá 35% vào năm 2020 (theo biểu đồ bên dưới). Đồng thời với sự già hóa dân số là tỷ lệ sinh thấp (năm 2007 con số này là 7.78%0) và dân số ngày càng giảm (năm 2007 tỷ lệ gia tăng dân số của Nhật Bản là - 0.139%). Xu hướng này đã ảnh hưởng lớn đến mọi mặt của đời sống Nhật Bản từ kinh tế, xã hội đến tiêu dùng.
Biểu đồ 6: Dự kiến dân số Nhật Bản năm 2020
51 Tham khảo thông tin từ:
1. Insights, Women consumer market in Japan – the super aging society, MasterCard International, 3rd quarter
Có thể bạn quan tâm!
- Hành Vi Người Tiêu Dùng Nhật Trong Trường Hợp Hài Lòng Với Sản Phẩm
- Ảnh Hưởng Tới Chính Sách Xúc Tiến Hỗ Trợ Kinh Doanh
- Thương Hiệu Việt Nam Chưa Có Chỗ Đứng Trên Thị Trường Quốc Tế Nói
- Tăng Cường Kiểm Tra Chất Lượng Hàng Hoá Xuất Khẩu Sang Nhật Bản
- Xây Dựng Và Phát Triển Mạng Lưới Phân Phối Trên Thị Trường Nhật Bản
- Nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng Nhật Bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường này - 14
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
2005
www.masterintelligence.com/upload/181/116/China_Affluent-Lifestyles-S.pdf
2. Trends among Japanese consumers and promising targets, http://www.hawaiitourismauthority.org/pdf/Japan%20Cnsmr%20Trends.pdf
3. http://www.kilian-nakamura.com/blog-english/index.php/trendspotting-coolhunting-tokyo-japan/
3.1.2. Sự lan rộng của phong cách sống gắn liền với công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin đã làm thay đổi lối sống của người dân Nhật. Tỷ lệ số người sử dụng Internet/ tổng số dân ở Nhật đã đạt đến 70% vào năm 2004, lên đến 77.3% năm 2006 và con số này vẫn tiếp tục tăng. Các phong cách giao tiếp và tiêu dùng mới ngày càng phát triển rộng rãi cùng với sự lan rộng của mạng Internet, của thế giới blog và điện thoại di động. Ngày nay, người dân Nhật Bản không những sử dụng điện thoại di động cho những mục đích thông tin liên lạc mà còn dùng nó chủ yếu cho việc truy cập Internet (Các trang web như Youtube hay Nico Nico Douga đang thu hút một lượng lớn người xem mặc dù những trang này vẫn đầy các bản copy không hợp pháp của các chương trình TV hay ca nhạc hơn là nội dung gốc do những người sử dụng Nhật tạo ra), các blog không chỉ được dùng như một dạng nhật ký cá nhân mà còn là nơi để các blogger trao đổi thông tin về việc sử dụng sản phẩm. Website cũng trở thành một phần không thể thiếu đối với các công ty Nhật Bản nhằm cung cấp thông tin hoặc cung cấp dịch vụ cho khách hàng như một kênh mua hàng bán trực tuyến. Tiền điện tử cũng là một phương thức thanh toán hiện đại đang được ứng dụng với số lượng khách hàng sử dụng tiền điện tử đến nay là hơn 15 triệu người, tiền điện tử rất có thể trở thành một trào lưu tiêu dùng trong tương lai.
3.1.3. Sự phát triển của lối sống hưởng thụ và chủ nghĩa cá nhân
Nói đến lối sống hưởng thụ và chủ nghĩa cá nhân ở đây không phải với mục đích phê phán mà người viết muốn đề cập đến một xu thế trong xã hội Nhật Bản. Tỷ lệ người già trong xã hội Nhật Bản là một trong những nguyên nhân dẫn tới xu hướng này. Những người tiêu dùng lớn tuổi lại là những người có thu nhập rất cao trong xã hội Nhật (từ nhiều nguồn khác nhau như lương hưu, tiền tiết kiệm, thừa kế,…) và sử dụng chúng vào mục đích hưởng thụ cuộc sống như mua sắm hay đi du lịch. Bên cạnh đó lại có một bộ phận ngày càng tăng những người độc thân trong xã hội Nhật Bản, cuộc sống độc thân đã thay đổi những giá trị gia đình truyền thống từ trước đến nay tại Nhật từ đó kéo theo sự thay đổi trong tiêu dùng. Chủ nghĩa hưởng thụ cũng xuất hiện ở tầng lớp thanh niên Nhật Bản, chưa lập gia đình và hay chạy theo trào lưu mới.
3.2. Các xu hướng tiêu dùng của người tiêu dùng Nhật Bản
3.2.1. Sự phát triển của chủ nghĩa tiêu dùng cá nhân và xu hướng chuyển từ nhu
cầu về chức năng đối với sản phẩm sang nhu cầu về cảm giác
Marketing truyền thống luôn nhấn mạnh vào yếu tố hoàn cảnh của người tiêu dùng, tức là vợ, chồng, con cái,… ví dụ như “sử dụng sản phẩm của chúng tôi và bạn sẽ đem đến cho con bạn những điều tốt nhất!” nhưng ngày nay khẩu hiệu đó phải chuyển thành “bản thân tôi rất quan trọng và tôi xứng đáng được hưởng nó” bởi tiêu dùng cho bản thân là chính đáng và xu hướng này đang phát triển mạnh mẽ ở Nhật Bản. Người tiêu dùng Nhật giờ đây mua hàng là vì họ thích sản phẩm đó và họ mua cho bản thân mình.
Mặc dù người tiêu dùng Nhật Bản không bỏ qua chức năng của sản phẩm nhưng họ bắt đầu có sự quan tâm đặc biệt đến cảm giác mà sản phẩm đó đem lại. Giờ đây họ không chỉ yêu cầu sản phẩm có chất lượng tốt mà còn đòi hỏi chúng phải đem đến cảm giác thoải mái cho người sử dụng. Hai sản phẩm sau đây là một ví dụ (hình). Người tiêu dùng Nhật Bản ngày nay không dựa theo một chuẩn mực nhất định nào để đánh giá sản phẩm mà họ dựa vào tiêu chuẩn về giá trị của chính bản thân và có thị hiếu riêng về sản phẩm. Do có đời sống ngày càng cao, người Nhật không chỉ chi trả vì sản phẩm đó cần thiết cho nhu cầu của họ mà còn vì sản phẩm đó phù hợp với phong cách sống và khẳng định được giá trị bản thân của người tiêu dùng. Đối với người Nhật bây giờ là “phong
cách sống của tôi – sở thích của tôi” (My lifestyle – My taste). Do vậy, họ sẽ coi trọng cảm giác về vật liệu, hình dáng và màu sắc của sản phẩm hơn.
3.2.2. Xu hướng tiêu dùng theo phong cách thân thiện với môi trường
Người Nhật có ý thức cao về môi trường sống và ngày càng thiên về các sản phẩm thân thiện với môi trường. Ngày nay, người tiêu dùng Nhật tiêu dùng sản phẩm để phục vụ cho cuộc sống “LOHAS” tức là “lối sống khỏe mạnh và bền vững” (Lifestyles Of Health And Sustainability). Do vậy, sản phẩm “xanh” đang là một xu thế được ưa chuộng ở Nhật. Ý tưởng mang theo “những đôi đũa cá nhân” bên mình để tránh phải sử dụng những đôi đũa chỉ dùng một lần đã bắt đầu xuất hiện. Các cửa hàng ở Nhật cũng khuyến khích khách hàng mang theo túi cá nhân để đựng khi mua đồ hay bán đồ kèm với túi làm bằng chất liệu dễ phân hủy, tái chế được gọi là “túi sinh thái” và hạn chế việc sử dụng túi nilon và túi nhựa.
3.2.3. Xu hướng tìm kiếm sự hài hòa trong tiêu dùng
Ngày càng có nhiều người tiêu dùng Nhật Bản tìm kiếm sự hài hòa giữa giá cả và chất lượng sản phẩm. Bên cạnh những sản phẩm “hàng hiệu” như Louis Vuition, người tiêu dùng Nhật cũng đã bắt đầu quan tâm đến những hàng thuộc dạng “second hand”, đặc biệt là thanh niên Nhật và những người sống độc thân. Một căn phòng rộng với một chiếc ghế sofa, một chiếc bàn nhỏ, một chiếc ti vi, sàn gỗ, tường kết hợp giữa hai màu đỏ và vàng,… nhưng không có thứ gì là đồ “brand new” tức là mới hoàn toàn. Đây cũng là một xu thế tiêu dùng trong giới trẻ Nhật hiện nay. Họ ít quan tâm đến nhãn hiệu như thế hệ đi trước mà tìm kiếm những đồ thỏa mãn được sở thích của mình và có thể tự mình trang trí thêm cho sản phẩm. Sản phẩm và dịch vụ khách hàng cũng là hai yếu tố cần kết hợp hài hòa khi muốn bán hàng cho khách hàng Nhật Bản. Các kênh mua sắm hàng hóa ngày càng phong phú và đa dạng nên người tiêu dùng Nhật hiện nay coi trọng việc “đi đến đâu mua hàng và mua như thế nào” hơn là vấn đề “mua cái gì”. Do vậy, thái độ phục vụ của người bán hàng cũng là một yếu tố quan trọng thu hút người tiêu dùng Nhật. Người tiêu dùng Nhật muốn giao tiếp với những người bán gây được sự tin tưởng của họ và nếu họ hài lòng thì khả năng bán được hàng hóa rất cao.
3.2.4.Xu hướng tiêu dùng những sản phẩm chức năng
Hiểu một cách đơn giản “sản phẩm chức năng” là những sản phẩm có lợi cho sức khỏe và đây cũng là một loại sản phẩm rất được ưa chuộng ở Nhật Bản do người Nhật rất quan tâm đến sức khỏe của mình. Đó cũng chính là một lý do khiến họ có yêu cầu rất cao đối với chất lượng sản phẩm, đặc biệt là lương thực, thực phẩm. Cùng với
sự già hóa dân số, xu hướng tiêu dùng các sản phẩm chức năng cũng phát triển ở Nhật. Trẻ em Nhật Bản rất được quan tâm chăm sóc nên những sản phẩm này cũng là một trong những loại thực phẩm không thể thiếu trong một gia đình có trẻ em. Do vậy, những sản phẩm như rau quả, bột ngũ cốc,… và các loại sản phẩm giàu canxi, ít chất béo và có hàm lượng cholesterol thấp khác rất được ưa chuộng ở Nhật. Hiện nay, nước rau ép đang là một xu hướng tiêu thụ mới ở Nhật. Nước rau ép vừa có lợi cho sức khỏe lại phù hợp với cuộc sống bận rộn của người Nhật, nên đây sẽ là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam nếu tận dụng được xu thể này.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
1. Giải pháp vĩ mô [52]
Theo như các phân tích, hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp, tạo ra các rào cản vô hình mà các doanh nghiệp phải đối mặt khi xuất khẩu hàng hóa của mình vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Nhà nước chỉ có thể đóng vai trò hỗ trợ cho các doanh nghiệp để tạo môi trường thuận lợi giúp các doanh nghiệp phát huy được hết tiềm lực của mình, chủ động trong việc nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng tại các thị trường quốc tế, từ đó xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả nhằm thâm nhập vào các thị trường này. Có thể nói, vai trò của Nhà nước như một chất dầu bôi trơn guồng máy hoạt động của các doanh nghiệp, giúp hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra suôn sẻ hơn.
1.1. Tổ chức nghiên cứu, thu thập thông tin về thị trường Nhật Bản
Như đã nói, hành vi tiêu dùng tuy không mới mẻ gì đối với các doanh nghiệp nước ngoài nhưng lại còn lạ lẫm đối với các doanh nghiệp Việt Nam và chưa có sự quan tâm đúng mức. Do đó, Chính phủ và các Bộ, ngành trước hết có vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam về văn hóa tiêu dùng nói chung và về tầm quan trọng của việc nghiên cứu hành vi tiêu dùng nói riêng. Cụ thể, Bộ Thương mại hoặc Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam có thể tổ chức
52 Tham khảo các tài liệu sau:
1. ThS. Đỗ Cường Thanh – Sở Thương mại Hải Phòng, Những thành tựu và hạn chế về xuất khẩu của Việt Nam – Khuyến nghị về giải pháp chủ yếu để thực hiện chiến lược xuất khẩu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Thông tin và dự báo Kinh tế - Xã hội, Số 9/2006
2. Nguyễn Thị Nhiễu (2004), Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển xuất khẩu nông sản, thủy sản và hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trườngNhật Bản, Viện nghiên cứu thương mại, Bộ Thương Mại.
những cuộc hội thảo về đề tài nghiên cứu hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng tại các thị trường khác nhau, đặc biệt chú trọng đến thị trường Nhật Bản bởi đây là thị trường khó tính và có yêu cầu cao đối với sản phẩm, dịch vụ. Trong các cuộc hội thảo đó, các doanh nghiệp có thể trao đổi những kinh nghiệm thực tế, những thành công hay thất bại liên quan tới hành vi người tiêu dùng khi thâm nhập một thị trường mới.
Hai là, cơ quan Thương vụ của Việt Nam tại Nhật Bản cần tích cực nghiên cứu, thu thập thông tin về thị trường Nhật Bản, nhất là hành vi của người tiêu dùng Nhật Bản. Thương vụ đặt tại Nhật Bản nên có điều kiện tiếp xúc hàng ngày với hoạt động tiêu dùng tại Nhật Bản. Do đó, có thể cập nhật thường xuyên những thay đổi trong giá trị, thái độ, lối sống, thói quen, thị hiếu tiêu dùng của người Nhật. Bên cạnh đó, Thương vụ cần thường xuyên tiếp cận các đối tượng bạn hàng, trong đó chú trọng đến các hiệp hội ngành hàng, các phòng thương mại, một số tập đoàn công ty có nhiều quan hệ làm ăn với Việt Nam để tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu thị trường. Trên cơ sở những thông tin thu được, Thương vụ báo cáo kịp thời về cho Bộ Thương mại để cung cấp cho doanh nghiệp Việt Nam khi muốn thâm nhập thị trường Nhật Bản.
Ba là, các cơ quan nghiên cứu như Viện Kinh tế thế giới cần có những chuyên đề nghiên cứu về hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng nói chung và của người tiêu dùng Nhật Bản nói riêng. Những công trình nghiên cứu đó sẽ có tác dụng thiết thực giúp các doanh nghiệp định hướng chiến lược kinh doanh khi thâm nhập thị trường mới. Ngoài ra, các học viện và các trường đại học nên tổ chức những khóa học chuyên sâu về hành vi người tiêu dùng, văn hóa tiêu dùng,…
1.2. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Nhà nước đối với thị trường Nhật Bản
Theo các chuyên gia kinh tế, từ trước tới nay, thành công của doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là nhờ các yếu tố như giá nhân công rẻ, sự hỗ trợ tài chính của Chính phủ… nhưng đến nay những lợi thế này đang mất dần. Cụ thể, theo công ty nghiên cứu thị trường TNS – Việt Nam, giá nhân công Việt Nam đã tăng lên khoảng 20% kể từ năm 2003 đến năm 2005 và sẽ còn tiếp tục tăng, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập WTO, thực hiện lộ trình cam kết sẽ mở cửa các ngành hàng, dịch vụ. Đồng thời với giá nhân công gia tăng, việc hỗ trợ tài chính của Chính phủ cũng dần phải cắt giảm theo các cam kết quốc tế. Vì vậy, Nhà nước cần tạo sức cạnh tranh mới cho các doanh
nghiệp thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại, đặc biệt là hoạt động xúc tiến xuất khẩu đối với thị trường Nhật Bản. Cụ thể:
Đối với việc tổ chức kênh thông tin về thị trường Nhật Bản phục vụ cho doanh nghiệp, Bộ Thương Mại có thể thông qua trang web của mình để giới thiệu về thị trường Nhật Bản và các nhà nhập khẩu Nhật Bản đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, các hiệp hội ngành hàng như Hiệp hội thủy sản Việt Nam, Hiệp hội dệt may Việt Nam,… cũng cần công bố những thông tin cụ thể và cập nhật đối với thị trường Nhật Bản nói riêng và các thị trường xuất khẩu của ngành hàng nói chung để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thông tin. Hiện nay, các website của các Hiệp hội tuy đã đưa các thông tin về các thị trường xuất khẩu nhưng các thông tin thường chỉ là những thông tin chung chung và đã lỗi thời (ví dụ như thông tin của Hiệp hội dệt may Việt Nam đưa lên là từ năm 2003). Ngoài ra, Cục Xúc tiến thương mại Việt Nam cũng cần phối hợp chặt chẽ và tranh thủ khai thác tối đa sự giúp đỡ của Sứ quán Nhật Bản, JETRO Nhật Bản,… hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm thông tin về Nhật Bản, các nhà nhập khẩu Nhật Bản, các sản phẩm tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam đối với Nhật Bản.
Đối với việc tham gia các hội chợ, triển lãm tại Nhật Bản, Cục Xúc tiến thương mại cần công bố các danh mục các hội chợ triển lãm hàng năm được tổ chức tại Nhật Bản, đồng thời hướng dẫn các doanh nghiệp đăng ký tham gia và có thể đề xuất hỗ trợ một phần kinh phí cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ Nhật Bản. Nhà nước cũng cần nghiên cứu và triển khai một số Trung tâm thương mại Việt Nam tại Nhật Bản như nơi trưng bày, giới thiệu và bán hàng Việt Nam cho người Nhật Bản.Các Trung tâm này sẽ đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, thời gian đầu Thương vụ có thể cử cán bộ biệt phái sang làm việc tại Trung tâm, những cán bộ này sẽ chịu trách nhiệm hướng dẫn và đào tạo cho đại diện các doanh nghiệp trưng cách trưng bày giới thiệu sản phẩm, hoặc giới thiệu, tuyển mộ lao động người Nhật Bản làm việc tại các trung tâm cho các doanh nghiệp,… Trên thực tế, một hình thức của Trung tâm thương mại Việt Nam đã ra đời là “Nhà Việt Nam” tại Tokyo vào năm 2002, với sự giúp đỡ của Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản.
"Nhà Việt Nam" tại Tokyo có khu vực dành riêng giới thiệu các sản phẩm hàng hóa của Việt Nam, khu vực giới thiệu về du lịch Việt Nam và đặc biệt tại đây có khu
vực ẩm thực dành cho khách tham quan. Tuy vẫn còn hạn chế trong số lượng hàng trưng bày, chỉ chủ yếu tập trung vào một số loại sản phẩm về hàng sơn mài, thủ công mỹ nghệ, du lịch... - những mặt hàng có thể nói đang gây "cơn sốt" cho giới trẻ Nhật hiện nay đã khá thành công trong vai trò nhà xúc tiến thương mại. Anh Seiji, giám đốc một doanh nghiệp kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ tại tỉnh Shizuoka (Nhật), trong lần đến lấy hàng tại Việt Nam vào đầu tháng 8-2003, kể lại: "Năm ngoái tình cờ trong lần cùng một người bạn đi ăn tại phố Ebisu, Tokyo, khi ghé vào nhà Việt Nam chúng tôi khá bất ngờ khi biết tại đây không chỉ có các món ăn Việt Nam mà còn có cả hàng hóa từ Việt Nam. Đặc biệt có các loại hàng zakka (hàng thủ công mỹ nghệ) được làm từ các loại thổ cẩm, loại hàng mà tôi đang tìm. Tại đây họ không những cung cấp cho chúng tôi địa chỉ, số điện thoại, fax... của các cơ sở sản xuất mà còn chỉ cách thức làm ăn với người Việt như thế nào... Ngay sau đó tôi đã quyết định sang Việt Nam, tìm đến cơ sở này ở Thủ Đức và bây giờ họ chính thức trở thành nhà cung cấp mặt hàng thủ công mỹ nghệ này cho công ty chúng tôi".[53] Như vậy, việc thành lập các Trung tâm như “Nhà Việt Nam” đã góp phần tích cực vào việc quảng bá hình ảnh Việt Nam đối với người dân Nhật Bản, đồng thời góp phần đưa hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào thị trường này.
Nhà nước cũng có thể hỗ trợ các doanh nghiệp bằng cách hỗ trợ thực hiện các chương trình xúc tiến thiết kế mẫu mã sản phẩm cho xuất khẩu sang Nhật Bản, đặc biệt là đối với sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Ví dụ như Chương trình kiểm tra thiết kế nhằm hạn chế nạn ăn cắp thiết kế, vi phạm bản quyền; Chương trình triển lãm thiết kế hàng xuất khẩu Việt Nam sang Nhật Bản; Các chương trình xúc tiến xuất khẩu hàng hóa kiểu dáng đẹp của Việt Nam,… Những hỗ trợ của Nhà nước có thể bao gồm cả việc hỗ trợ đào tạo nghệ nhân, các nhà tạo mẫu sản phẩm, tổ chức các cuộc thi chọn sản phẩm độc đáo cho xuất khẩu,…
1.3. Định hướng phát triển mặt hàng xuất khẩu sang Nhật Bản
Trên cơ sở các thông tin thu được, Nhà nước xác định các mặt hàng Việt Nam có lợi thế cạnh tranh và phù hợp với hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng Nhật Bản để định hướng, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Trên thực tế, Nhà nước đã thông qua chiến lược xuất nhập khẩu của Việt
53 http://www.vysa.jp/modules.php?op=modload&name=News&file=article&sid=478&mode=thread&order=0&thold=0