Bảng 4.17: Số lượng phương tiện giao thông đến Cát Bà 67
Bảng 4.18: Chất lượng nước ở khu du lịch Cát Bà 68
Bảng 4.19: Chất lượng nước ở khu du lịch Cát Bà 68
Bảng 4.20: Tổng lượng phát thải dự báo đến năm 2020 về việc sử dụng phương tiện giao thông đến VQG Cát Bà 69
Bảng 4.21: Ý kiến của khách du lịch 69
Bảng 4.22: Ý kiến của du khách về chất lượng không khí tại VQG Cát Bà 71
Bảng 4.23: Lượng rác thải tại VQG Cát Bà vào mùa du lịch 72
Bảng 4.242: Ý kiến về khách du lịch vứt rác bừa bãi 74
Bảng 4.25: Công tác thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn 77
Bảng 4.26: Ý kiến của cán bộ xã về tình hình an ninh trật tự tại địa phương 76 Bảng 4.27: Ý kiến của người dân về tác động của hoạt động du lịch tới lối sống, phong tục tập quán 77
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu đánh giá tác động của hoạt động du lịch đến tài nguyên tại Vườn Quốc gia Cát Bà - Hải Phòng - 1
- Tác Động Của Du Lịch Sinh Thái Tới Kinh Tế, Xã Hội Và Môi Trường Tự Nhiên
- Kinh Nghiệm Quản Lý Và Khai Thác Hoạt Động Du Lịch Sinh Thái Của Các Vqg Ở Việt Nam
- Nghiên Cứu Tác Động Của Du Lịch Sinh Thái Đến Tài Nguyên Vườn Quốc Gia Cát Bà
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
Bảng 4.28: Đánh giá tác động tổng hợp của hoạt động du lịch 85
Bảng 4.29: Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức đối với công tác phát triển du lịch ở VQG Cát Bà 86
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 4.1: Trung tâm cứu hộ của VQG 39
Hình 4.2: Bảng tin giáo dục môi trường 39
Hình 4.3: Lượng khách du lịch trong và ngoài nước 41
Hình 4.4: Biểu đồ ý kiến của người dân địa phương 46
Hình 4.5: Biểu đồ mong muốn tham gia của người dân vào hoạt động du lịch .48 Hình 4.6: Nhũ đá bị đập ở động Trung Trang 51
Hình 4.7: Nhu cầu của khách du lịch đối với lâm sản ngoài gỗ 53
Hình 4.8: Hình ảnh các sản phẩm rừng được bày bán công khai 55
Hình 4.9: Tuyến Trung tâm vườn - rừng Kim Giao - đỉnh Ngự Lâm - động Trung Trang 57
Hình 4.10: Tuyến động Trung Trang - hang Ủy ban - suối Treo Cơm 57
Hình 4.11: Tuyến Du lịch giáo dục môi trường - động Trung Trang 58
Hình 4.12: Tuyến Trung tâm Vườn - Ao Ếch - Việt Hải 58
Hình 4.13: Tuyến Việt Hải - Trà Báu 58
Hình 4.14: Tuyến Trung Trang - Áng Xum - Liên Minh - Suối Gôi 58
Hình 4.15: Cơ hội quan sát động vật hoang dã tại VQG Cát Bà 62
Hình 4.16: Biểu đồ ý kiến của khách du lịch về việc sử dụng phương tiện giao thông đến VQG Cát Bà 70
Hình 4.17: Biểu đồ ý kiến của khách du lịch 71
về chất lượng không khí tại VQG Cát Bà 71
Hình 4.18: Biểu đồ tổng hợp ý kiến về rác thải tại VQG Cát Bà 74
Hình 4.19: Rác thải vứt bừa bãi tại VQG Cát Bà 75
Hình 4.20: Nơi tập kết rác thải ở các tuyến tại VQG Cát Bà 75
Hình 4.21: Nơi tập kết và xử lý rác thải tại VQG Cát Bà 78
Hình 4.22: Bản đồ tọa độ các điểm đã bị sạt lở và có nguy cơ bị sạt lở trên tuyến Trung tâm vườn - rừng Kim Giao - đỉnh Ngự Lâm - động Trung Trang 79
Hình 4.23: Một số điểm bị sạt lở tuyến du lịch Trung tâm vườn, rừng Kim Giao, đỉnh Ngự Lâm, động Trung Trang - VQG Cát Bà 79
Hình 4.24: Bản đồ tọa độ các điểm đã bị sạt lở và có nguy cơ bị sạt lở trên tuyến Giáo dục môi trường - động Trung Trang 80
Hình 4.25: Một số điểm bị sạt lở tuyến Du lịch giáo dục môi trường và động Trung Trang - Vườn Quốc gia Cát Bà 80
Hình 4.26: Bản đồ tọa độ các điểm đã bị sạt lở và có nguy cơ bị sạt lở trên tuyến Trung tâm vườn - Ao Ếch - Việt Hải 81
Hình 4.27: Một số điểm bị sạt lở tuyến du lịch Trung tâm vườn 81
Hình 4.28: Mô hình xử lý rác thải 89
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một quốc gia có tài nguyên thiên nhiên phong phú, hệ sinh thái đa dạng điển hình. Đây chính là tiềm năng, thế mạnh để phát triển du lịch sinh thái. Tuy nhiên, du lịch ở nước ta mới dừng lại ở du lịch đại chúng, chưa có sự quan tâm, đầu tư đúng mức và tầm nhìn vĩ mô của Đảng, Nhà nước. Vì vậy, những năm gần đây, đi đôi với những nguồn lợi kinh tế mà du lịch mang lại, là sự suy thoái về tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái. Do đó, vấn đề đặt ra với chính quyền các cấp là hướng hoạt động du lịch theo hình thức du lịch sinh thái, phát triển du lịch gắn liền với bảo vệ tài nguyên và góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng xã hội.
Hải Phòng là thành phố du lịch nổi tiếng với những danh lam thắng cảnh hùng vĩ làm say đắm lòng người. Với lợi thế có biển đảo, núi đồi, rừng tự nhiên trên núi đá vôi, rừng trồng trên núi đất, rừng ngập mặn ven sông biển, với khu dự trữ sinh quyển Cát Bà và Vườn quốc gia Cát Bà… có thể khẳng định Hải Phòng chứa đầy tiềm năng cho phát triển du lịch đặc biệt là du lịch sinh thái. Nói đến du lịch sinh thái ở Hải Phòng phải kể đến Cát Bà - khu du lịch sinh thái bậc nhất với hàng trăm núi đảo lớn nhỏ nổi lên giữa biển cả mênh mông sóng nước, đặc biệt hơn cả ở địa danh du lịch này là Vườn quốc gia Cát Bà.
Vườn quốc gia Cát Bà nằm trên quần đảo Cát Bà. Nơi đây có mưa rừng nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rặng san hô, thảm dong - cỏ biển, hệ thống hang động, tùng áng, và nhiều loài động vật quý hiếm. Đây là nơi hội tụ đầy đủ các giá trị bảo tồn đa dạng sinh học. Cát Bà được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Đảo Cát Bà nằm trong tổng thể của quần thể vinh Hạ Long tạo nên khu du lịch sinh thái cảnh quan thiên nhiên rừng - biển - đảo đẹp, kỳ vĩ, thơ mộng. Hàng năm nơi đây thu hút một
lượng lớn khách du lịch trong nước và quốc tế, đem lại nguồn lợi nhuận đáng kể cho phát triển kinh tế tại Hải Phòng.
Tuy nhiên, với chức năng chính của Vườn quốc gia Cát Bà là bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học nên việc quản lý, đầu tư cho mục đích phát triển du lịch bền vững chưa thực sự được quan tâm, khai thác một cách hợp lý các tiềm năng sẵn có, chưa phát huy được vai trò của du lịch sinh thái đối với công tác bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Lượng khách du lịch tăng nhanh hàng năm gây ảnh hưởng không nhỏ đến tài nguyên tại vườn quốc gia Cát Bà. Cần có những nghiên cứu đánh giá về tác động của du lịch đến tài nguyên thiên nhiên, từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục những tác động tiêu cực đến khu bảo tồn, giúp phát triển du lịch Cát Bà theo hướng bền vững. Đồng thời chia sẻ lợi ích với cộng đồng để thu hút cộng đồng tích cực tham gia vào bảo vệ tài nguyên.
Những lý do trên chính là cơ sở quan trọng để chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đánh giá tác động của hoạt động du lịch đến tài nguyên tại Vườn Quốc gia Cát Bà”.
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm du lịch
Từ giữa thế kỷ XIX, du lịch đã bắt đầu phát triển mạnh và ngày nay du lịch trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phố biến. Hiệp hội lữ hành quốc tế đã công nhận du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới vượt lên cả ngành sản xuất ô tô, thép điện tử và nông nghiệp. Vì vậy, du lịch đấ trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia: trên thế giới. Thuật ngữ du lịch đã trở nên khá thông dụng, nó bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là đi một vòng. Du lịch gắn liền với nghỉ ngơi, giải trí, tuy nhiên do hoàn cảnh, thời gian và khu vực khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau nên khái niệm du lịch cũng không giống nhau.
Theo Liên Hiệp Quốc các tổ chức lữ hành chính thức (International Union of Official Travel Oragnization: IUOTO): Du lịch được hiểu là hành động du hành đến một nơi khác với địa điếm cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích không phải để làm ăn, tức không phải để làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống...
Tại hội nghị LHQ về du lịch họp tại Roma - Italia ( 21/8 - 5/9/1963), các chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc cuả họ.
Theo I.I pirôgionic, 1985: Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư
trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần nâng cao trình độ nhận thức văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá.
Ngoài ra du lịch còn đưọc định nghĩa nhìn từ góc độ du khách; nhìn từ góc độ kinh tế; từ góc độ thị trường du lịch; Xét từ góc độ các quốc sách phát triển du
1.1.1.2. Khái niệm về du lịch sinh thái
Du lịch xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thuật ngữ du lịch xuất hiện lần đầu tiên ở nước Anh, vào những năm 1800. Từ đó đến nay, đã có rất nhiều các quan niệm khác nhau về du lịch.
Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO, 1994): “Du lịch là một tập hợp các hoạt động và dịch vụ đa dạng, liên quan đến việc di chuyển tạm thời của con người ra khỏi nơi ở thường xuyên của họ nhằm mục đích tiêu khiển, nghỉ ngơi, văn hóa, dưỡng sức,...và nhìn chung là vì những lí do không phải để kiếm sống”.
DLST bắt đầu được bàn đến từ những năm đầu của thập kỉ 80. Những người nghiên cứu tiên phong và điển hình về lĩnh vực này là Ceballos - Lascurain, Boo, Buckley. Định nghĩa DLST, do Ceballos - Lascurain đưa ra lần đầu tiên vào năm 1987, mới chỉ đơn thuần coi DLST là du lịch đến với vùng thiên nhiên còn hoang sơ, thưởng thức một cái gì đó một cách thụ động, ít gây tác động đến môi trường.
Sau đó, có nhiều định nghĩa khác nhau về DLST, đã được các nhà nghiên cứu quan tâm đưa ra như: Lindberg và Hawkins, Boo, Buckley, Western,.. .DLST có thể coi như một sự liên kết chiến lược, giữa du lịch và môi trường: du lịch hỗ ừợ bảo tồn (Buckley, 1999) và bảo tồn hỗ trợ du lịch (Vanosterzee, 1999). Sự hỗ trợ này có thể là về mặt tài chính, kinh tế hoặc kết họp cả hai mặt đó (Driml và Common, 1995; Read Sturgess, 1999). Đề có
hiệu quả, nó thường phải có sự tham gia của các thành phần thuộc Nhà nước, tư nhân và lực lượng tình nguyện.
1.1.2. Du lịch tại Khu bảo tồn và Vườn Quốc gia
VQG là một khái niệm phổ biến trong hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học. Ở Việt Nam, khái niệm VQG được đưa ra trong quyết định số 186/2006QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ [16].
Trên thế giới, tại các nước đang phát triển như Thụy Điển, Nhật Bản, Mỹ,... các KBT được xây dựng dựa trên sự bảo tồn và phát triển du lịch, nhiều loại hình du lịch được hình thành như leo núi, dùng xe xem động vật hoang dã; bảo vệ, theo dõi cuộc sống của các loài linh trựởng, ngắm nhìn các loài động thực vật biển...
Du lịch đã mang lại nhiều hiệu quả cụ thể trong lĩnh vực bảo tồn và phát triên bên vững. Ở Costa Rica và Venezuela, một số chủ trang trại chăn nuôi đã bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng và họ đã biến những nơi đó thành điểm du lịch hoạt động tốt, giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên tạo việc làm và thu nhập cho người dân địa phương.
Ecuađo sử dụng khoản thu nhập từ du lịch tại đảo Galapago để giúp duy trì toàn bộ mạng lưới Vườn Quốc gia.
Tại Nam Phi, du lịch trở thành một biện pháp hiệu quả để nâng cao mức sống của người da đen ở nông thôn, những người da đen này ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động du lịch.
Chính phủ Ba lan cũng tích cực khuyến khích du lịch và gần đây đã thiết lập một số vùng thiên nhiên và du lịch của quốc gia để tăng cường công tác bảo vệ thiên nhiên và phát triển du lịch quốc gia.
Tại Úc và Niuziland, du lịch là ngành công nghiệp được xếp hạng cao trong nền kinh tế của cả hai nước.