Bảng 1.1. Đánh giá độ trữ ẩm cực đại của đất
Đất có thành phần cơ giới nhẹ | ||
Độ trữ ẩm so với đất khô (%) | Đánh giá | |
< 25 | Không đạt yêu cầu đối với đất canh tác | Đối với cây rừng thích nghi ở đất cát |
Đối với cây trồng thích nghi | ||
25 – 30 | Trung bình | ở đất cát, độ trữ ẩm không |
được nhỏ hơn 10% | ||
30 – 40 | Tốt | Đất cát (đất trồng trọt) ở tầng |
cày có độ trữ ẩm cực đại từ | ||
40 – 50 | Tốt nhất | 20 - 25% |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu đặc trưng thấm và giữ nước tiềm tàng của đất rừng tại núi Luốt - Xuân Mai - Hà Nội - 1
- Đề Xuất Một Số Giải Pháp Cải Thiện Khả Năng Thấm, Giữ Nước Của Đất
- Một Số Chỉ Tiêu Khí Hậu - Thủy Văn Khu Vực Xuân Mai
- Đặc Điểm Điều Kiện Lập Địa Khu Vực Nghiên Cứu
Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.
Theo Rode A.A [40], lượng chứa nước hữu hiệu trong đất được chia
thành các dạng sau:
Bảng 1.2: Lượng chứa nước hữu hiệu trong đất
- Độ trữ ẩm từ không đến sức chứa ẩm | |
được) | phân tử cực đại |
- Rất khó sử dụng | - Từ sức chứa ẩm phân tử cực đại đến độ ẩm cây héo |
- Khó sử dụng | - Từ độ ẩm cây héo đến độ ẩm đứt mao mạch dẫn |
- Sử dụng trung bình | - Từ độ ẩm đứt mao mạch dẫn đến sức chứa ẩm cực đại |
- Dễ sử dụng chuyển sang trạng thái | - Từ sức chứa ẩm cực đại đến sức chứa |
thừa | ẩm toàn phần. |
Các nhà khoa học Trung Quốc cũng khẳng định vai trò quan trọng của
rừng trong việc bảo vệ đất và nước là lớn hơn nhiều so với giá trị kinh tế trực
tiếp mà nó mang lại. Trần Huệ Tuyền [43] đã nghiên cứu khả năng giữ nước của rừng đầu nguồn hồ Tùng Hoa - Côn Minh (Trung Quốc) cho thấy với diện tích rừng đầu nguồn là 60.000 ha, độ tàn che là 30%, hàng năm giữ lại được khoảng 8,3 triệu m3 nước.
Khi nghiên cứu về bốc hơi nước, Danton (1976) (dẫn theo Phùng Ngọc Lan, [27]) khẳng định, khả năng giữ nước của đất phụ thuộc vào khả năng bốc hơi bề mặt đất và đưa ra phương trình sau:
V = k.(F - f).760S/P
Với V là lượng nước thoát hơi; k là hệ số khuếch tán; F là áp lực hơi nước bão hòa trong khoảng không gian xung quanh bề mặt bốc hơi ở nhiệt độ đã cho; f là áp lực nước ở môi trường xung quanh; P là áp lực không khí; S là diện tích của bề mặt bốc hơi.
Ngoài ra, vật rơi rụng cũng có khả năng ngăn giữ dòng nước tương đối lớn, nên có tác dụng bổ sung nước cho đất và cung cấp nước cho thực vật (dẫn theo Phạm Văn Điển, 2006) [10]. Những nghiên cứu của Black & Kelliher (1989) [27] cho thấy rằng, lượng nước bốc hơi từ vật rơi rụng của các kiểu rừng khác nhau chiếm khoảng 3 - 21% tổng lượng nước bốc hơi trên mặt đất rừng.
Nhìn chung, những nghiên cứu về khả năng thấm, giữ nước của đất rừng của các tác giả là khá đa dạng và đã có những kết quả nhất định có thể áp dụng vào thực tiễn sản xuất nông - lâm nghiệp.
1.1.1.3. Lượng nước bốc hơi
Bốc hơi nước trên đất rừng là một trong những nhân tố quan trọng nhất của tuần hoàn nước và cân bằng năng lượng của hệ sinh thái rừng; những biến đổi về lượng nước sản sinh ra của lưu vực do những biến đổi của rừng gây ra có liên quan chặt chẽ với bốc hơi nước của rừng. Người ta cho rằng: thảm thực vật rừng có lượng nước thoát hơi lớn hơn các loại thảm thực vật khác,
cộng với sự ngăn giữ nước của các tầng tán rừng và lớp thảm mục trong rừng chính là nguyên nhân chủ yếu làm cho lượng nước sản sinh ra của lưu vực tăng lên khi diện tích rừng giảm đi. Vì thế việc đo lường hoặc tính toán chuẩn xác những biến đổi theo không gian và thời gian của bốc hơi nước trên đất rừng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc đánh giá ảnh hưởng cơ lý của tuần hoàn thuỷ văn rừng và mở mang khai thác mô hình thuỷ văn lưu vực, đối với việc định ra phương án quản lý kinh doanh rừng hợp lý. Tuy nhiên, do có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến bốc hơi của rừng, và cũng do tính khác biệt về thời gian và tính dị biệt về không gian cực kỳ lớn, cho nên nếu đem những kết quả thí nghiệm với một quy mô tương đối nhỏ trên hiện trường thực nghiệm mà suy tính áp dụng cho quy mô sườn dốc hoặc lưu vực tương đối lớn sẽ tất yếu ảnh hưởng đến độ chuẩn xác của nó.
Bốc hơi nước trên đất rừng là do các quá trình trao đổi bức xạ, chuyển dịch (vận chuyển) của hơi nước và sinh trưởng phát triển của sinh vật tạo nên. Phương pháp đo lường chuẩn xác nhất là sử dụng thiết bị đo bốc hơi nước Lysimeter, nhưng do tính hạn chế của nó khi đem ra sử dụng ngoài thực tế đồng ruộng, nên chưa được ứng dụng rộng rãi. Các phương pháp được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu bốc hơi nước của rừng bao gồm: phương pháp thuỷ văn học, phương pháp khí tượng học, phương pháp thuỷ động lực học đất và phương pháp sinh lý thực vật học.
Phương pháp thuỷ văn học là phương pháp dựa vào phương trình cân bằng lượng nước hệ thống, thông qua đo lường lượng mưa, lượng nước thấm xuống các tầng đất sâu, lượng dòng chảy trên mặt đất và biến đổi động thái của nước được tích giữ trong đất, để tính toán ra lượng bốc hơi hệ thống.
Phương pháp vi khí tượng học lại có thể chia ra làm 4 phương pháp là: phương pháp động lực học không khí, phương pháp cân bằng năng lượng, phương pháp tổng hợp và phương pháp tương quan dòng xoáy. Phương pháp
động lực học không khí là dựa vào mối quan hệ giữa lượng hơi nước lưu thông theo chiều thẳng đứng với thang độ độ ẩm theo chiều thẳng đứng, thông qua tài liệu phân bố của tốc độ gió theo chiều thẳng đứng để tính toán ra hệ số trao đổi hỗn lưu hơi nước và sau đó tính ra lượng bốc hơi. Phương pháp cân bằng năng lượng được coi là một phương pháp vi khí tượng học để xác định lượng bốc hơi nước của rừng chuẩn xác nhất và thực dụng nhất hiện nay (Rose and Sharma, 1984) (dẫn theo Phạm Văn Điển, [10]). Người sáng lập ra phương pháp này là học giả Liên xô cũ nổi tiếng Budyko, ý tưởng cơ bản của phương pháp này là thông qua việc dựng lên một phương trình cân bằng năng lượng để xác định lượng lưu thông tiềm nhiệt dùng cho bốc hơi nước, từ đó mà tính ra lượng nước bốc hơi. Cũng giống như với phương pháp động lực học không khí, trong trường hợp có đối lưu không khí thì phương pháp cân bằng năng lượng dễ sinh ra sai số khá lớn. Phương pháp tổng hợp là sự tổng hợp của hai phương pháp nêu trên, tức là kết hợp phương trình lưu thông không khí với phương trình cân bằng năng lượng lại với nhau, từ đó không cần phải xác định hơi nước trong tán rừng, tốc độ gió, thang độ nhiệt độ (từ mặt đất lên đến tán rừng) cũng vẫn có thể tính toán được bốc hơi nước của đất rừng. Penman sử dụng phương pháp động lực học không khí để tính toán ra lượng lưu thông tiềm nhiệt dùng cho bốc hơi nước, Monteith cải tiến thêm thành phương pháp tính toán tỷ lệ phản xạ của thảm thực vật, vì thế loại phương pháp này chính là sử dụng phương trình Penman - Monteith để tính toán lượng bốc hơi nước, trong đó việc xác định lực cản trở (trở lực) động lực học không khí và lực cản trở (trở lực) của tầng tán rừng có tầm quan trọng bậc nhất.
Phương pháp thuỷ động lực học đất cũng còn gọi là phương pháp lượng lưu thông vận động của nước, trong đó bao gồm các phương pháp: Phương pháp lượng lưu thông số 0, phương pháp lượng lưu thông bề mặt và phương
pháp lượng lưu thông định vị (Lôi Chí Đống vv...1998; Dư Thân Hiểu, 1993) (dẫn theo Phạm Văn Điển, [10]). Như trên đã đề cập, do hiện nay các phương pháp lượng lưu thông đều trực tiếp sử dụng định luật Darcy - miêu tả di động của nước theo hướng thẳng đứng và phương trình giữ cân bằng khối lượng để tính toán lượng bốc hơi nước, nên khi đem phương pháp này ứng dụng cho lưu vực rừng thì độ tin cậy của nước theo phương ra hai bên sườn dốc, khiến cho khi tính toán lượng lưu thông phải dùng đến phương trình dòng chảy theo không gian hai chiều mới thực hiện được.
Ở Trung Quốc bắt đầu công tác nghiên cứu bốc hơi nước của rừng vào đầu những năm 60 (thế kỷ 20) (Từ Đức Ứng, 1988), dẫn theo Phạm Văn Điển, [10]), phần lớn kết quả nghiên cứu cho thấy, lượng bốc hơi của hệ sinh thái rừng bao gồm cả tổn thất nước do ngăn giữ của tán rừng và thảm mục...đại thể chiếm vào khoảng 40% - 80% của lượng mưa nơi đó (Lưu Kế Vinh,..1996) dẫn theo Phạm Văn Điển, [10]). Khang Văn Tinh sử dụng phương pháp khuyếch tán hỗn lưu để tiến hành nghiên cứu quy luật bốc hơi bình quân năm trong rừng Samu nhân tạo chiếm 82,2% tổng lượng nước rơi hàng năm, trong đó lượng bốc hơi và thoát hơi nước của tán rừng chiếm khoảng 89,3% tổng lượng bốc hơi và thoát hơi nước của rừng, còn lượng bốc hơi nước của đất rừng chiếm có 10,7%; kết quả này hoàn toàn phù hợp với lượng bốc hơi và thoát hơi nước được tính toán theo phương pháp cân bằng nước.
1.1.2. Tồn tại nghiên cứu
Mặc dù đã thu được nhiều thành quả trong gần một thế kỷ qua, nhưng việc nghiên cứu khả năng thấm và giữ nước của đất rừng trên thế giới vẫn còn tồn tại một số bất cập như:
- Thiếu các mô hình toán học đảm bảo độ tin cậy và đơn giản để mô
phỏng quá trình nước chảy tràn, đọng nước trên bề mặt,..
- Nghiên cứu đặc trưng thấm và giữ nước của đất rừng chưa được nghiên cứu một cách độc lập, vẫn chỉ như một nhánh trong nghiên cứu thuỷ văn rừng.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Thành quả nghiên cứu
1.2.1.1. Khả năng thấm nước của đất
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực thuỷ văn đất rừng tuy còn mới mẻ nhưng đã được một số thành công như việc phát triển từng bước phương pháp nghiên cứu định lượng, mang tính hệ thống, góp phần quan trọng tạo dựng cơ sở khoa học cho việc xây dựng các khu rừng phòng hộ nước ta. Tuy nhiên, các công trình đó chủ yếu là nghiên cứu cấu trúc, đặc điểm của rừng, độ tàn che, khả năng điều tiết nước của rừng…chưa có công trình nào nghiên cứu hoàn thiện đến các tính chất thuỷ văn của đất rừng. Ở Việt Nam những nghiên cứu về khả năng thấm nước của đất cũng đã được áp dụng và đạt được những thành quả nhất định.
Trần Kông Tấu, Ngô Văn Phụ, Hoàng Văn Huây và các cộng sự (1986)
[40] đã thí nghiệm trên 3 loại đất khác nhau: Đất phù sa nước ngọt sông Hậu (Cần Thơ), đất phèn Châu Đốc (An Giang), đất mặn phèn thuộc nông trường Đông Hải - Bạc Liêu. Kết quả cho thấy tốc độ thấm của đất phèn là lớn nhất, sau đó là đất phù sa nước ngọt sông Hậu và thấp nhất là đất mặn phèn. Đất phù sa nước ngọt có tính thấm cao như vậy vì đất rất tơi xốp đặc biệt hàm lượng mùn khá cao. Đối với đất mặn phèn có hệ số thấm thấp là do tính “trương” của đất mặn quá mạnh.
Khi nghiên cứu về đặc tính thấm nước trên đất phèn ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Chu Đình Hoàng [17] dựa vào cơ chế thấm nước để thiết kế hệ thống kênh mương để rửa mặn, rửa phèn trên nước.
Nghiên cứu về tốc độ thấm nước, Hà Quang Khải [22] đã chỉ ra rằng giai đoạn đầu của sự thấm nước vào đất, các loại nước hấp phụ và nước mao quản được hình thành và có tốc độ thấm nhỏ, sau đó nước thấm vào đất là do trọng lực với tốc độ thấm lớn hơn. Từ đó tác giả chia tốc độ thấm nước của đất ra thành 3 loại: Khả năng thấm nước cao (Vt >1,5 cm/phút), khả năng thấm
trung bình (Vt dao động từ 0,5 - 1,5 cm/phút), và khả năng thấm kém (Vt <0,5
cm/phút).
Ngoài ra có một số các công trình khác cũng đề cập tới ảnh hưởng của kiểu thảm thực vật với khả năng thấm nước của đất rừng như Nguyễn Viết Phổ [35], Phạm Ngọc Dũng [3]. Các tác giả khẳng định cây rừng ở nước ta có khả năng tiêu thụ một lượng nước rất lớn, đồng thời đất rừng cũng là một nhân tố ảnh hưởng rất rõ đến tốc độ thấm.
1.2.1.2. Khả năng giữ nước của đất
Nghiên cứu vai trò giữ nước của rừng ở nước ta được bắt đầu vào những năm 1970 và đẩy mạnh vào đầu những năm 1990, tuy vậy đây vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ và chưa được nghiên cứu nhiều.
Theo Hoàng Văn Thế (1986) (dẫn theo Nguyễn Viết Phổ) [35] thì khả năng bốc hơi vật lý là khả năng bốc hơi từ đất trần còn gọi là bốc hơi khoảng trống, nó phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, thời tiết, địa hình.
Một số công trình nghiên cứu dã đề cập đến vai trò điều tiết nước của rừng, ảnh hưởng của kiểu thảm thực vật rừng tới việc thay đổi chế độ dòng chảy mặt tại các lưu vực và ảnh hưởng đến lượng nước của sông ngòi như công trình của Nguyễn Viết Phổ [35], Vũ Văn Tuấn [41], [42]. Những nghiên cứu này cho thấy vai trò điều tiết nước đặc biệt hữu hiệu của thảm thực vật rừng, đặc biệt là việc cung cấp nước cho sông suối vào mùa khô. Nguyễn Ngọc Lung và cộng sự [31] đã dựa vào mật độ thấm, thoát nước và sự thoái
hóa của các loại đất để cho điểm và đánh giá vai trò của nhân tố đất ảnh
hưởng tới xói mòn và dòng chảy.
Công trình nghiên cứu ở Tứ Quận, Tuyên Quang của bộ môn khí tượng thủy văn rừng (Viện nghiên cứu Lâm nghiệp Việt Nam cũ) (dẫn theo Phạm Văn Điển, 2006) [10] tập trung chủ yếu vào việc tìm hiểu lượng nước chảy bề mặt và lượng đất xói mòn dưới tán rừng bồ đề trồng thuần loài đều tuổi trong khoảng thời gian 3 năm (1974 - 1976).
Theo Hoàng Văn Thế (1986) (dẫn theo Bùi Hiếu, 2002) [14], khả năng bốc hơi vật lý là khả năng bốc hơi từ đất trần còn gọi là bốc hơi khoảng trống, nó phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, thời tiết, địa hình.
Lê Đăng Giảng và Nguyễn Thị Hoài Thu [11] đã tổng kết kết quả nghiên cứu về khả năng giữ nước, điều tiết dòng chảy của rừng thứ sinh hỗn giao lá rộng tại núi Tiên, Hữu Lũng, Lạng Sơn.
Theo Trần Kông Tấu, Ngô Văn Phụ, Hoàng Văn Huầy (1986) [40] khả năng giữ nước của đất có quan hệ chặt chẽ với thành phần cơ giới đất. Đất càng có thành phần cơ giới nặng thì khả năng giữ nước và độ trữ ẩm cực đại càng lớn. Theo thứ tự có thể xếp loại khả năng giữ nước của các loại đất chính ở Việt Nam như sau:
Ferralsols > Acrisols (trên gơnai) > Acrisols (trên phù sa cổ).
Sự vận động ẩm trong đất chưa bão hoà đã được Phạm Thịnh và Nguyễn Quang Kim (2003, [39]) mô phỏng bằng phần mềm Reproduce. Phần mềm này đã mô phỏng được sự biến đổi độ ẩm đất trong đất trồng cây theo phương thẳng đứng. Kết quả đã đưa ra được phương trình cân bằng nước trong mỗi lớp đất:
Qi.Δt - (E + Ti) = Δθi - hi (i = 1) (qi - 1 - qi).Δt + Ti.Δt = θi.hI (i = 2N)