- Phun sơn: Áp dụng hiệu ứng tĩnh trong quá trình phun sơn có bộ điều khiển trên súng, có thể điều chỉnh lượng bột phun ra hoặc điều chỉnh chế độ phun sơn theo hình dáng vật sơn.
- Sấy: Vật sơn sau khi sơn được đưa vào buồng sấy. Tùy theo chủng loại thông số kỹ thuật của bột sơn mà đặt chế độ sấy tự động thích hợp (nhiệt độ sấy 1500C - 200oC, thời gian sấy 10 - 15 phút).
- Cuối cùng là khâu kiểm tra, đóng gói thành phẩm. Do trong qui trình xử lý bề mặt tốt, qui trình phosphat kẽm bám chắc lên bề mặt kim loại, nên sản phẩm sau khi sơn tĩnh điện có khả năng chống ăn mòn cao dưới tác động của môi trường. Màu sắc của sản phẩm sơn tĩnh điện rất đa dạng và phong phú như sơn bóng hay nhám sần, vân búa hay nhũ bạc... Vì vậy, sản phẩm sơn tĩnh điện có thể đáp ứng cho nhu cầu trong nhiều lĩnh vực có độ bền và thẩm mỹ cao, đặc biệt là đối với các mặt.
1.2. Tình hình sản xuất sơn tĩnh điện tại Việt Nam [33]
Ở Việt Nam, cha ông ta từ gần 400 năm trước đã biết dùng sơn ta từ cây sơn mọc tự nhiên chế biến thành sơn trang trí và bảo vệ cho chất lượng gỗ của các pho tượng thờ, các tấm hoành phi câu đối “sơn son thiếp vàng”. Lớp sơn bảo vệ này chất lượng hầu như không thay đổi sau hàng trăm năm sử dụng. Sơn ta đến nay vẫn được coi là nguyên liệu chất lượng cao dùng cho ngành tranh sơn mài được ưa chuộng cả trong và ngoài nước hoặc một số loại dầu béo như: dầu chẩu và dầu lai hoặc nhựa thông từ cây thông ba lá mọc tự nhiên tại Việt Nam, từ lâu đã được người dân chế biến thành dầu bóng (clear – varnish) gọi nôm na là “quang dầu” dùng trang trí và bảo vệ cho “nón lá” hoặc “đồ gỗ”, nội ngoại thất [33].
Tuy nhiên, việc sử dụng sơn nói trên chỉ mang tính chất tự phát từ nhu cầu đời sống thường ngày, đến năm 1913 - 1914 ở Việt Nam mới xuất hiện một xưởng sơn dầu ở Hải Phòng do người Pháp mở mang nhãn hiệu TESTUDO. Tiếp sau đó vài năm, hãng sơn Việt Nam đầu tiên “Công ty sơn Nguyễn Sơn Hà” được thành lập và tiếp theo có các hãng sơn ở Hà Nội là Thăng Long, Gecko. Trong đó cần chú ý là loại sơn RESISTANCO của hãng sơn Nguyễn Sơn Hà rất được người tiêu dùng
trong và ngoài nước ưa chuộng, đây có thể nói là hãng sơn đầu tiên lớn nhất tại Việt Nam lúc ấy và còn để lại giấu ấn lịch sử tới ngày nay là Công ty cổ phần sơn Hải Phòng phát triển từ mảnh đất mang tên Xí nghiệp sơn Phú Hà (hậu duệ sau này của ông Nguyễn Sơn Hà). Vì vậy có thể nói rằng: ông Nguyễn Sơn Hà chính là ông tổ ngành sơn Việt Nam [33].
Ngành công nghiệp sơn Việt Nam có thể lấy điểm khởi đầu phát triển từ năm 1914 -1920 [33]. Tuy nhiên do bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam mãi đến năm 1975 mới thực sự là một quốc gia độc lập và thống nhất lãnh thổ và có đầy đủ điều kiện phát triển kinh tế xã hội và từng bước phát triển ngành sơn Việt Nam có thể chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1914 – 1954: [33].
Tại Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn với sản phẩm chủ yếu là sơn dầu, sơn alkyd gốc dung môi với công nghệ đơn giản, chất lượng sơn không cao chủ yếu phục vụ cho yêu cầu sơn trang trí xây dựng, các loại sơn công nghiệp chất lượng cao đều nhập khẩu.Ngoài ra trong vùng tự do thời kháng chiến chống Pháp cũng có cơ sở sản xuất sơn của Việt Nam nhưng sản phẩm chủ yếu là sơn dầu từ nguyên liệu thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam như: nhựa thông, dầu chẩu…
Giai đoạn 1954 – 1975: [33].
Miền Bắc: có 3 nhà máy sơn nhà nước quy mô sản xuất công nghiệp là:
Nhà máy Sơn Tổng Hợp Hà Nội ,Nhà máy Hóa chất Sơn Hà Nội và Nhà máy Sơn Hải Phòng (trước đây là xí nghiệp sơn Phú Hà) do Sở Công nghiệp Hải Phòng quản lý.
Miền Nam: Có 16 hãng sơn lớn nhỏ sản xuất đủ các loại sơn tổng sản lượng
7.000 tấn/năm (theo số liệu của Tổng Cục Hóa Chất – 28/4/1976) Các nguyên liệu sản xuất phần lớn đều nhập khẩu có chất lượng cao, công nghệ hiện đại theo thời điểm 1960, có thể kể các nhà máy lớn và các sản phẩm tiêu biểu.
Nhà máy sơn Bạch Tuyết và Huệ Phát (nay là Công ty sơn Bạch Tuyết): sản phẩm chủ yếu là sơn alkyd dùng cho ngành xây dựng và 1 lượng không lớn sơn Epoxy.
Nhà máy sơn Á Đông, Á Châu, Việt Điểu, Vĩnh Phát sản phẩm chủ yếu là sơn dầu, sơn alkyd và sơn nước cho ngành sơn trang trí xây dựng.
Giai đoạn 1976 – 1989[33].
Đặc điểm phát triển của ngành sơn giai đoạn này mang dấu ấn khó khăn chung của nền kinh tế sau chiến tranh thống nhất đất nước.
Các loại sơn nhựa tổng hợp có chất lượng cao và tốt dùng cho ngành công nghiệp gốc Alkyd, Epoxy…chỉ được sản xuất số lượng ít theo hạn mức ngoại tệ nhập khẩu nguyên liệu.
Tổng sản lượng sơn chỉ đạt mức dưới 10.000 tấn/năm cung không đủ cầu, những loại sơn có chất lượng tốt đều phân phối theo chỉ tiêu và giá bao cấp do Nhà nước quản lý.
Giai đoạn 1990 – 2008[33].
Năm 1986, kinh tế Việt Nam bắt đầu bước vào thời kỳ “đổi mới” với đặc tính của nền kinh tế thị trường, cùng với việc chuyển biến tích cực của nền kinh tế, nhưng sự chuyển biến tích cực của ngành sơn chỉ bắt đầu khởi đầu từ năm 1990 để bước vào quá trình hội nhập phát triển với khu vực quốc tế và dần dần ổn định phát triển liên tục tới năm(2008) Có thể tóm tắt đặc điểm lịch sử phát triển của ngành sơn Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2008 như sau:
Quá trình hội nhập (1990 – 1993) [33].
Mức tiêu thụ (chủ yếu sơn trang trí) trung bình 10.000 tấn/ năm. Sản phẩm chủ yếu do trong nước sản xuất: Sơn dầu alkyd chất lượng sản phẩm và công nghệ: không cao, không đáp ứng được yêu cầu về số lượng - chất lượng và chủng loại sơn (nhất là sơn trang trí gốc nước và sơn công nghiệp).
Bước đột phá về đầu tư (1993 – 1997) [33]. Thuận lợi: GDP trung bình tăng trưởng 8,8%/ năm.
Ngành xây dựng tốc độ gia tăng mạnh là các yếu tố tích cực cho ngành sơn phát triển.
Mức tiêu thụ: tăng vọt qua các năm: 10.000 tấn năm 1993 , 25.000 tấn năm 1996, 40.000 tấn, năm 1997. Sơn trang trí chiếm tỉ lệ: 80% mức tiêu thụ.
Sơn tàu biển và bảo vệ chiếm tỉ lệ 20% mức tiêu thụ.
Mức độ đầu tư nước ngoài về sơn đạt mức khoảng 90 triệu USD: có 20 công ty sơn nước ngoài lập nhà máy liên doanh với Việt Nam hoặc 100% vốn nước ngoài, đặc biệt là các công ty có tên tuổi lớn về sơn quốc tế đều có mặt ở thị trường Việt Nam.
Kết quả với dòng đầu tư đột phá này từ nước ngoài kéo theo sự chuyển đổi mạnh mẽ của đầu tư trong nước, chất lượng công nghệ sơn tại Việt Nam đã được “thay da đổi thịt” và tạo ra các dòng sản phẩm có chất lượng theo yêu cầu thị trường. Từ đó làm cơ sở hết sức quan trọng cho bước phát triển nhảy vọt và ổn định cho các năm kế tiếp nhất là từ năm 2000 về sau.
Quá trình phát triển ổn định trước thách thức (1997 – 1999) [33].
Thách thức phát triển kinh tế Việt Nam: khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam Á (1997 – 1999) Việt Nam tuy ít chịu ảnh hưởng nhưng cũng tăng trưởng chậm lại qua các chỉ tiêu phát triển kinh tế của Việt Nam. Ngành sơn Việt Nam vẫn đạt tốc độ phát triển 15 - 20% năm đến hết năm 1999.
Quá trình phát triển với tốc độ cao 2000 – 2007 [33].
Bối cảnh lịch sử: Các nước Đông Nam Á đã vượt qua giai đoạn khủng hoảng tài chính và nền kinh tế bắt đầu hồi phục và phát triển ổn định. Kinh tế Việt Nam ít bị ảnh hưởng của khủng hoảng này, tuy có tăng trưởng chậm lại nhưng rất ổn định và ngày càng phát triển mạnh hơn – thể hiện qua các chỉ tiêu phát triển kinh tế sau đây:
Bảng 1: Mức tăng trưởng GDP trong các năm của Việt Nam
Năm | Mức tăng GDP/ năm ( %) | |
1 | 2000 | 6,8% |
2 | 2001 | 6,9% |
3 | 2002 | 7,08% |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu áp dụng sản xuất sạch hơn nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và hoạt động bảo vệ môi trường tại Nhà máy sơn tĩnh điện Bình Phát – Công ty cổ phần Thương Mại Bình Phát - 1
- Nghiên cứu áp dụng sản xuất sạch hơn nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và hoạt động bảo vệ môi trường tại Nhà máy sơn tĩnh điện Bình Phát – Công ty cổ phần Thương Mại Bình Phát - 2
- Các Vấn Đề Môi Trường Phát Sinh Trong Quá Trình Sản Xuất Sơn Tĩnh Điện
- Tổng Hợp Lượng Chất Thải Rắn Sinh Hoạt Và Sản Xuất Phát Sinh
- Phương Pháp Luận Kiểm Toán Chất Thải Do Unep/unido Đề Xuất,1991
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
Năm | Mức tăng GDP/ năm ( %) | |
4 | 2003 | 7,34% |
5 | 2004 | 7,79% |
6 | 2005 | 8,44% |
7 | 2006 | 8,23% |
8 | 2007 | 8.48% |
(Nguồn số liệu: Niên giám của Tổng cục Thống kê Việt Nam) [13].
Bảng 2: Nguồn vốn triển khai trong các năm của Việt Nam
Năm | Vốn đăng ký ( tỉ USD) | Thực hiện ( tỉ USD) | |
1 | 2000 | 2,839 | 2,44 |
2 | 2001 | 3,143 | 2,450 |
3 | 2002 | 2,999 | 2,591 |
4 | 2003 | 3,191 | 2,650 |
5 | 2004 | 4,548 | 2,853 |
6 | 2005 | 6,840 | 3,309 |
7 | 2006 | 12,004 | 4,100 |
8 | 2007 | 21,348 | 8,030 |
Nguồn số liệu: Niên giám của Tổng cục Thống kê Việt Nam [13].
Mức Ngành sơn Việt Nam sau khi đạt được sự phát triển ổn định trong giai đoạn thách thức khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam Á (1997 - 1999) với tốc độ tăng trưởng dao động 15 – 20%/năm thì bắt đầu từ năm 2000 đến năm 2007 là quá trình phát triển với tốc độ cao cùng với sự tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế Việt Nam với các đặc điểm phát triển như sau:
Phát triển mạnh về sản lượng và chủng loại sơn:Sơn trang trí chiếm tỉ trọng lớn, tăng trưởng trung bình 25%/năm, sơn tàu biển, bảo vệ, sơn công nghiệp ngày càng phát triển theo yêu cầu thị trường (theo bảng số liệu các năm 1995 đến 2007 về phát triển thị trường sơn Việt Nam do Hiệp hội sơn và mực in Việt Nam – VPIA công bố). [14].
Cho đến năm 2009 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (khoảng hơn 200 doanh nghiệp) vẫn chiếm 60% thị phần, 40% còn lại là phần các doanh nghiệp Việt Nam.
Với đặc điểm phát triển tốc độ cao trong giai đoạn này có mức tăng trưởng trung bình 15 – 20% năm, số lượng doanh nghiệp sản xuất sơn ngày càng gia tăng. Việt Nam trở thành “điểm nóng” thu hút đầu tư của các nước trong khu vực và quốc tế vào ngành công nghiệp sơn. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Hiệp hội ngành nghề sơn - mực in Việt Nam (tên giao dịch VPIA) được thành lập 25/4/2008 từ tổ chức tiền thân là phân hội sơn - mực in thuộc Hội hóa học – Tp.Hồ Chí Minh. Ngay năm đầu tiên thành lập, tính đến 21/4/2009 VPIA đã quy tụ 112 Hội viên Doanh nghiệp có liên quan đến ngành nghề (trong số 71 Hội viên là doanh nghiệp sản xuất có: 54 doanh nghiệp sản xuất sơn, 10 doanh nghiệp sản xuất mực in, 7 doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu và thiết bị sản xuất sơn). VPIA là thành viên chính thức của tổ chức APIC (Hội đồng quốc tế sơn Châu Á) gồm 17 Hiệp hội sơn các nước trong khu vực. VPIA là một Hiệp hội ngành nghề còn non trẻ, tập hợp số lượng Hội viên chưa lớn (64 Hội viên sản xuất sơn – mực in so với tổng số năm 2009 khoảng 280 doanh nghiệp sản xuất sơn - mực in trong cả nước. Hiện nay, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, VPIA đang bước đầu hội nhập vào con đường hoạt động chuyên nghiệp, với nhận định của các chuyên gia kinh tế có uy tín của thế giới, nền kinh tế Việt Nam sẽ sớm phục hồi và có thể giữ mức tăng trưởng trên 3% năm 2014, riêng ngành công nghiệp sơn vẫn đạt mức tăng trưởng mạnh về sơn bảo vệ và tàu biển, sơn trang trí…VPIA hy vọng sẽ hoạt động có hiệu quả trong quá trình bảo vệ lợi ích của Hội viên và đưa ngành sơn mực in Việt Nam hội nhập tốt vào các nước khu vực và quốc tế [14].
1.3. Tình hình sử dụng nguyên liệu, năng lượng, nước trong ngành sơn tĩnh điện
Nguyên liệu chính được sử dụng bao gồm: Nhôm định hình, Bột sơn tĩnh điện CR-2 (dongtai) [21].
Nguyên liệu phụ: bao gồm các loại hoá chất, chất trợ và các loại CR-2 (Dong tai), DA-2(Dong tai), H2SO4 , polyme, Al2(SO4)3, Fe2SO4, HNO3, NaOH [21].
Tình hình sử dụng năng lượng:
Năng lượng: Ngành sơn tĩnh điện sử dụng chủ yếu là điện năng cho máy móc, thiết bị công nghệ, điều hòa không khí, thông gió và chiếu sáng.
Nhiên liệu: Ngành sơn tĩnh điện thường sử dụng 2 loại nhiên liệu cho lò hơi là than đá hoặc dầu FO và xăng dầu cho phương tiện vận tải, nâng hạ, bảo trì... Gần đây đã bắt đầu xuất hiện một số thiết bị sử dụng khí Gas.
Tình hình sử dụng nước:
Nước được sử dụng trong ngành công nghiệp sơn tĩnh điện rất lớn, đặc biệt cho công nghệ mạ. Số liệu thống kê của các doanh nghiệp cho thấy định mức sử dụng nước cho 1 tấn sản phẩm của mỗi doanh nghiệp rất khác nhau. Sự khác nhau này phụ thuộc vào từng mặt hàng, từng thiết bị, công nghệ sử dụng. Sự thiếu hợp lý trong sử dụng dẫn đến lãng phí nước là hiện tượng rất phổ biến trong các doanh nghiệp sơn tĩnh điện.
Bảng 3: Nguyên vật liệu phục vụ sản xuất sơn tĩnh điện
Tên nguyên liệu | Công thức hóa học | Công đoạn sử dụng | Xuất xứ | |
1 | Nhôm định hình | Al | Nguyên liệu đầu vào chính | Việt Nam |
2 | Bột sơn tĩnh điện các loại | Epoxy, polyester, phụ gia | Nguyên liệu dùng sơn phủ | Việt Nam, trung quốc |
3 | CR-2 (dongtai) | HNO3: 8%; CrO3: 4%; NaNO3: 6% | Phủ Crom | Trung quốc |
4 | DA-2(Dong tai) | HF.H2O: 15%; H3PO4: 5%; C6H14O2: 5% | Phủ Crom | Trung quốc |
Tên nguyên liệu | Công thức hóa học | Công đoạn sử dụng | Xuất xứ | |
5 | A Xít sulfuric | H2SO4 | Xử lý nước thải, hoàn nguyên vật liệu hấp phụ | Việt Nam |
6 | Polyme | Polyme | Xử lý nước thải | Việt Nam |
7 | Nhôm Sulfate | Al2(SO4)3 | Xử lý nước thải | Việt Nam |
8 | Sắt Sulfate | Fe2SO4 | Xử lý nước thải | Việt Nam |
9 | Axit Nitoric | HNO3 | Xử lý nước thải | Việt Nam |
10 | Natri Hydroxide | NaOH | Làm sạch nguyên liệu, xử lý nước thải | Việt Nam |
11 | Gas lỏng, than, củi | Gas lỏng, than, củi | Nồi hơi | Việt Nam |
12 | Điện | Điện | Điều hòa, máy | Việt Nam |
13 | Nước: | H2O | Sinh hoạt, sản xuất | Việt Nam |
(Nguồn: Báo cáo tổng kết khoa học công nghệ đề tài cấp nhà nước - Nghiên
cứu chế tạo và ứng dụng sơn bột tĩnh điện) [2]
1.4. Tình hình nghiên cứu SXSH trong và ngoài nước
Với những lợi ích đáng kể SXSH ngày càng được áp dụng rộng rãi trên thế giới, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Canada, Australia, Thụy