Rủi ro trong kinh doanh lớn vì vậy rủi ro bảo lãnh của các ngân hàng khá cao, và việc phát triển, mở rộng cũng như nâng cao chất lượng bảo lãnh còn nhiều hạn chế.
Khách hàng của CN là các doanh nghiệp trong ngành xây dựng và giao thông vận tải, chiếm một tỷ lệ đáng kể (20%). Vừa qua, trong ngành giao thông và xây dựng đã xảy ra nhiều biến cố có tác động lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành. Sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này bị ngừng trệ đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của CN trong đó có hoạt động bảo lãnh. Điển hình là doanh số bảo lãnh năm 2006 giảm đáng kể do không còn một lượng lớn bảo lãnh của các doanh nghiệp giao thông và xây dựng hàng năm vẫn có.
- Trình độ phát triển của nền kinh tế chưa cao
Mặc dù hiện nay số lượng các doanh nghiệp trong nền kinh tế đang tăng mạnh nhưng chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp không cao đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh mới được thành lập trong những năm gần đây. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đa số còn chưa thể đáp ứng được các tiêu chuẩn cơ bản khi thẩm định do tình hình tài chính thiếu lành mạnh, năng lực hoạt động thấp, khả năng không thực hiện được cam kết là rất cao. Vì vậy, các doanh nghiệp này chưa thể là đối tượng khách hàng bảo lãnh chính của CN. Nhưng chắc chắn các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động và sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu bảo lãnh của CN trong một vài năm tới. Mặt khác, do người dân và bản thân nhiều doanh nghiệp cũng chưa thật sự hiểu rõ về dịch vụ bảo lãnh, không thấy được tiện ích của dịch vụ bảo lãnh. Vì vậy, nhu cầu bảo lãnh trong nền kinh tế chưa cao, doanh số bảo lãnh của CN còn thấp và cơ cấu bảo lãnh vẫn chỉ tập trung vào một số doanh nghiệp có quan hệ làm ăn lâu dài.
Nguyên nhân chủ quan
- CN chưa có những biện pháp đúng đắn để xây dựng được một cơ cấu khách hàng hợp lý
Khách hàng bảo lãnh ở CN chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp quốc doanh lâu năm, có quan hệ truyền thống với CN. Do chưa đa dạng hóa được đối tượng khách hàng bảo lãnh nên chất lượng bảo lãnh của CN phụ thuộc nhiều vào rủi ro kinh doanh của khách hàng. Rủi ro kinh doanh của khách hàng bảo lãnh khá lớn nên đã ảnh hưởng không tốt đến chất lượng bảo lãnh của CN.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên CN chưa tương xứng với yêu cầu đòi hỏi của hoạt động bảo lãnh.
Hiện nay, đội ngũ nhân viên làm việc tại CN chủ yếu là những cán bộ trẻ, có năng lực, nhiệt tình và tận tâm với công việc nhưng còn chưa có nhiều kinh nghiệm, kỹ năng. Vì vậy, họ còn gặp một vài khó khăn và sai sót trong công tác thẩm định bảo lãnh.
- Do chính sách ký quỹ của CN còn chưa tương xứng với rủi ro phải chịu
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt Động Của Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa Trong Giai Đoạn 2004 – 2006
- Tình Hình Bảo Lãnh Của Chi Nhánh Trong Thời Gian Qua
- Phân Tích Chất Lượng Bảo Lãnh Của Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa
- Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa - 9
Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.
Khách hàng của CN chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh lớn, có uy tín, vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp quen được Nhà nước ưu ái. Vì vậy, CN thường áp dụng một chính sách ký quỹ nới lỏng cho họ. Các doanh nghiệp này khi yêu cầu bảo lãnh thường không phải ký quỹ hoặc chỉ ký quỹ ở mức 5%. Mức ký quỹ ít và tỷ trọng của các khoản bảo lãnh này lại rất lớn mặc dù sẽ đem lại nhiều phí bảo lãnh hơn cho CN nhưng làm tăng rủi ro tiềm ẩn trong các khoản bảo lãnh và làm giảm chất lượng bảo lãnh của CN.
- CN chưa chú trọng đến việc thực hiện thống nhất và khoa học quy trình bảo lãnh.
Trong quy trình bảo lãnh, CN cũng như nhiều NHTM khác vẫn không thực hiện triệt để khâu thẩm định khoản bảo lãnh và thẩm định rủi ro bảo lãnh. Việc tiến hành thẩm định khoản bảo lãnh và thẩm định rủi ro còn qua loa, hình thức, chưa có những đánh giá đúng đắn và chính xác. Quyết định bảo lãnh của CN chủ yếu căn cứ vào kết quả thẩm định khách hàng, tỷ lệ ký quỹ và mối quan hệ của khách hàng với NH. Tuy nhiên, việc thẩm định khoản bảo lãnh và thẩm định rủi ro có nhiều khó khăn do thị trường tài chính chưa phát triển và đạt đến mức thị trường hiệu quả, cơ sở kỹ thuật công nghệ ngân hàng còn lạc hậu, thông tin cũng thiếu chính xác và không công khai.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
3.1. Định hướng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa trong thời gian tới
3.1.1. Định hướng chung của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
Năm 2006 là một mốc thời gian quan trọng đánh dấu sự kiện gia nhập WTO của nước ta. Từ đây, đất nước ta chắc chắn sẽ có những thay đổi lớn cả về kinh tế, xã hội và văn hóa. Nền kinh tế sẽ ngày càng phát triển và đi liền với nó là sự cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, trong đó ngân hàng tài chính là lĩnh vực sẽ gặp phải sự cạnh tranh lớn nhất. Các NHTM đang cố gắng xoay xở để tự cứu lấy mình trước “cơn bão” cạnh tranh, thâu tóm và sáp nhập sắp đến trong những năm tới. CN NHCT Đống Đa nói riêng và NHCT Việt Nam nói chung cũng không nằm ngoài xu hướng chung này.
Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội trong thời gian tới, định hướng chung của toàn hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam trong những năm tới là đổi mới cơ cấu, hiện đại hóa hệ thống và không ngừng tăng tiềm lực tài chính của ngân hàng. Theo đó, mục tiêu hoạt động cụ thể của CN NHCT Đống Đa trong năm tới là:
- Giảm tỷ lệ nợ xấu xuống mức thấp nhất, tỷ lệ nợ quá hạn không quá 5% tổng dư nợ.
- Tăng dư nợ đạt tiêu chuẩn của chi nhánh, tập trung tăng dư nợ trung và dài hạn đồng thời hướng tới đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ do phần lớn các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của CN trong đó quan trọng nhất là nâng cao chất lượng tín dụng.
- Tăng tổng nguồn vốn huy động, đặc biệt là các nguồn vốn chi phí thấp như tiền gửi thanh toán.
- Sắp xếp lại bộ máy tổ chức của chi nhánh theo hướng gọn nhẹ, giảm biên chế đồng thời tuyển chọn những nhân viên năng động, trẻ, có năng lực thay thế.
- Đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng, phát triển các dịch vụ mới, hiện đại đem lại nhiều tiện ích và sự thuận lợi cho khách hàng.
3.1.2. Định hướng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương ĐốngĐa
Nằm trong hệ thống mục tiêu hoạt động của CN trong thời gian tới, mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và nâng cao chất lượng bảo lãnh nói riêng đã được cụ thể hóa như sau:
- Tiến tới một cơ cấu bảo lãnh hợp lý và an toàn, trong đó tỷ trọng các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm phần lớn. Khi đó, chính sách ký quỹ của CN cũng sẽ phù hợp hơn.
- Tăng cường công tác tìm kiếm khách hàng mới đặc biệt là các thành phần kinh tế tư nhân, mở rộng và đa dạng hóa các nghiệp vụ bảo lãnh vì mục tiêu không ngừng tăng trưởng doanh số bảo lãnh lành mạnh để đem lại thu nhập cao cho ngân hàng.
- Xây dựng được quy trình bảo lãnh khoa học vừa đáp ứng được yêu cầu về thời gian vừa đáp ứng được nguyên tắc “sàng lọc và hiệu quả” trong hoạt động của ngân hàng.
- Phát triển đội ngũ cán bộ nhân viên thực hiện dịch vụ bảo lãnh về chất cũng như về lượng, không những giỏi chuyên môn mà còn phải có tư cách đạo đức tốt.
- Phối hợp hiệu quả dịch vụ bảo lãnh với các dịch vụ khác để đem lại độ thỏa dụng tối ưu cho khách hàng của CN.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
3.2.1. Xây dựng một chính sách marketing hiệu quả để thực hiện đa dạng hóakhách hàng, tiến tới một cơ cấu bảo lãnh hợp lý, an toàn
Như đã nói ở trên, khách hàng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp có quan hệ truyền thống lâu năm, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực giao thông và xây dựng cơ bản. CN hiện nay không có nhiều các khách hàng mới, vì vậy muốn nâng cao chất lượng bảo lãnh CN cần phải đa dạng hóa khách hàng. Để làm được điều này, trước hết CN cần thực hiện các việc sau:
- Bên cạnh việc giao thêm công tác tiếp thị dịch vụ, tư vấn khách hàng cho các cán bộ tín dụng, CN cần thành lập bộ phận Marketing nghiên cứu chuyên nghiệp để xây dựng cho mình môt thương hiệu mạnh.
- Nghiên cứu thị trường, phân nhóm khách hàng và phân tích các đặc điểm của từng nhóm khách hàng. Từ đó, xác định được nhu cầu và động cơ của khách hàng khi lựa chọn ngân hàng bảo lãnh và xây dựng được một chính sách phí, mức ký quỹ, các dịch vụ kèm theo phù hợp với đặc điểm của từng nhóm khách hàng.
- Đa dạng hóa không có nghĩa là cung cấp một cách lan man, không có trọng điểm. CN cần tìm ra thị trường mục tiêu cho dịch vụ bảo lãnh của mình, để tập trung chính sách Marketting cho đối tượng khách hàng này.
- Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của CN trong việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh, xác định vị trí của mình trong ngành, xác định các đối thủ cạnh tranh trực tiếp và gián tiếp . Từ đó tìm ra những khoảng trống thị trường phù hợp với mình để cung cấp dịch vụ bảo lãnh hiệu quả.
3.2.2. Tuân thủ quy trình bảo lãnh
Quy trình bảo lãnh do NHCT Việt Nam đề ra là chuẩn mực chung được áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống NHCT. Để có được quy trình này các cán bộ của NHCT Việt Nam đã phải nghiên cứu và tìm ra những bước cần làm trong quá trình tiếp nhận yêu cầu bảo lãnh đến khi kết thúc bảo lãnh, những tiêu chuẩn đánh giá hợp lý nhất. Vì vậy, CN cần tuân thủ thực hiện quy trình một cách nghiêm túc, tạo điều kiện cho NHCT Việt Nam kiểm soát và theo dõi dễ dàng tình hình bảo lãnh của CN để kịp thời ngăn chặn, xử lý kịp thời những sai sót có thể xảy ra. Khi thực hiện bảo lãnh theo một quy trình bảo lãnh chặt chẽ, khoa học CN mới có thể hạn chế được các kẽ hở trong công tác quản lý, tránh được hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tiền. Nếu không thực hiện nghiêm túc quy trình bảo lãnh thì CN không thể thực hiện được mục tiêu nâng cao chất lượng bảo lãnh của mình.
CN nên chú ý hoàn thiện công tác thẩm định phương án bảo lãnh, đây là một khâu rất quan trọng trong quy trình bảo lãnh. Thẩm định phương án bảo lãnh tức là thẩm định mức độ khả thi của phương án bảo lãnh, khả năng khách hàng có thể thực hiện cam kết bảo lãnh hay không. Trong quy định của NHCT VN, đối với các khoản bảo lãnh đảm bảo bằng 100% tiền ký quỹ tại NH thì việc phân tích thẩm định chỉ cần giới hạn ở kiểm tra các thông tin chung về khách hàng, tư cách và năng lực pháp lý của khách hàng. Tuy nhiên, CN không nên quá chú trọng đến tỷ lệ ký quỹ mà bỏ qua khả năng có thể thực hiện được cam kết bảo lãnh hay không. Bởi vì, nếu khách hàng
không thực hiện được cam kết bảo lãnh và CN phải bồi thường số tiền bảo lãnh cho bên thứ ba, thì chất lượng khoản bảo lãnh đó đã trở thành không tốt, làm giảm chất lượng bảo lãnh của ngân hàng mặc dù nhờ vào số tiền ký quỹ 100% ngân hàng không bị thiệt hại về vật chất. Để hoàn thiện công tác thẩm định khoản bảo lãnh, trước hết CN cần tạo điều kiện cho các cán bộ tín dụng đi thực tế khảo sát phương án bảo lãnh, kiểm tra độ xác thực của thông tin trong các hồ sơ bảo lãnh do khách hàng lập. CN cần cập nhật thông tin ngân hàng, thông tin doanh nghiệp và thông tin về nền kinh tế cho các cán bộ tín dụng để kịp thời theo dõi, phát hiện những nguy cơ tiềm ẩn của khoản bảo lãnh.
3.2.3. Xây dựng chương trình và hệ thống quản trị rủi ro trong hoạt động bảolãnh
Quản trị rủi ro là công tác rất quan trọng và cần thiết đối với mỗi một nghiệp vụ tín dụng trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh. Tuy nhiên, hiện nay các ngân hàng ở Việt Nam còn chưa chú trọng nhiều đến công tác này mặc dù rủi ro là nhân tố tác động trực tiếp tới chất lượng bảo lãnh của ngân hàng. Vì vậy, trong thời gian tới chi nhánh cần xây dựng chương trình quản trị rủi ro bảo lãnh, thành lập bộ phận quản lý rủi ro bảo lãnh khi hoạt động bảo lãnh đang ngày càng phát triển như hiện nay. Chương trình quản trị rủi ro bảo lãnh cần cung cấp được những nội dung sau:
- Xác định được ngưỡng chịu rủi ro hay là mức rủi ro tối đa có thể chấp nhận được trong nỗ lực tìm kiếm lợi nhuận. Ngưỡng chịu rủi ro này được tính toán trên cơ sở sức mạnh tài chính của CN và chính sách bảo lãnh của CN.
- Đánh giá rủi ro của từng khoản bảo lãnh:
+ Xác định các rủi ro có thể xảy ra khi thực hiện bảo lãnh. Rủi ro sẽ phụ thuộc vào loại hình bảo lãnh và đối tượng khách hàng được bảo lãnh. CN cần phải nhận biết rủi ro đối với từng loại bảo lãnh và từng loại khách hàng, xây dựng ma trận rủi ro để xác định rủi ro đối với từng khoản bảo lãnh cụ thể. Ví dụ, đối với bảo lãnh vay vốn thường là trung và dài hạn nên rủi ro rất cao, từng đối tượng khách hàng cũng có mức rủi ro khác nhau. Sau đó, hệ thống này cần phải ước lượng được rủi ro của khoản bảo lãnh. CN có thể sử dụng phương pháp thống kê hoặc tính toán, phân tích dựa trên đường cong xác suất và phương pháp ngoại suy. Phương pháp tính toán sẽ
cho ra kết quả khá chính xác và có thể thực hiện được dễ dàng bằng phần mềm tính toán của máy vi tính.
+ Xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ để kiểm tra, kiểm soát rủi ro bảo lãnh sao cho luôn ở dưới ngưỡng chịu rủi ro.
+ Tìm kiếm các biện pháp để hạn chế rủi ro và hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra. Cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi khoản bảo lãnh và có phản ứng kịp thời khi nhận thấy có dấu hiệu rủi ro mới phát sinh. Khi ngân hàng phải thanh toán hộ khách hàng, ngân hàng sẽ ghi nợ bắt buộc cho khách hàng. Khoản nợ này sẽ được coi như các khoản nợ thông thường khác, CN và khách hàng sẽ thỏa thuận thời hạn trả nợ và chỉ khi đến hạn khách hàng không thanh toán CN mới chuyển loại nợ. Tuy nhiên, khi ngân hàng đã phải thanh toán hộ khách hàng có nghĩa là khách hàng đã gặp vấn đề, có dấu hiệu khó thanh toán, vì vậy khoản nợ này chắc chắn sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn các khoản nợ thông thường cùng loại khác. Cán bộ tín dụng cần phải theo dõi chặt chẽ khoản nợ này.
- Đánh giá rủi ro đối với từng đối tượng khách hàng dựa trên cơ sở phân tích ngành của khách hàng, tiềm lực tài chính của khách hàng. Hoạt động này hiện nay đã được CN thực hiện tương đối kỹ. CN cần phát huy và nâng cao khả năng phân tích, đánh giá khách hàng hơn nữa để đáp ứng được mức độ phát triển, thay đổi nhanh chóng của đời sồng kinh tế.
3.2.4. Xây dựng một chính sách phí và mức ký quỹ hợp lý
Chính sách phí và mức ký quỹ là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh của CN. Hiện nay CN đang áp dụng một biểu phí chung cho tất cả các dịch vụ bảo lãnh đó là: mức phí tính 1%/năm cho phần số dư bảo lãnh có ký quỹ
; mức phí tính 2%/năm cho phần số dư bảo lãnh không ký quỹ. Biểu phí này đã phần nào cân đối được mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên, biểu phí này chưa thực sự cân đối giữa lợi ích và chi của khách hàng được bảo lãnh. Trước đây trong quyết định 283/2000/QĐ–NHNN có quy định mức phí bảo lãnh không quá 2%/năm, nhưng quy định này đã được bỏ trong quy chế bảo lãnh mới đi kèm theo quyết định 26/2006/QĐ-NHNN, thay vào đấy là quy định cho phép các NHTM cung cấp một mức phí thỏa thuận, linh hoạt cho bên được bảo lãnh. Căn cứ vào quy định của NHNN và thực tế dịch vụ của mình, CN phải xây dựng chính sách
phí sao cho khách hàng không cảm thấy quá đắt so với những gì mình nhận được, như vậy mới khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh. Sau đây là một số giải pháp được đề xuất nhằm giúp CN có một chính sách phí phù hợp:
- CN nên xây dựng một biểu phí chi tiết cho từng loại nghiệp vụ bảo lãnh vì mỗi loại bảo lãnh tiềm ẩn mức độ rủi ro khác nhau. Như vậy, khi muốn tập trung phát triển, mở rộng loại nghiệp vụ bảo lãnh nào, CN có thể hạ mức phí bảo lãnh của nghiệp vụ bảo lãnh đó xuống mà không làm ảnh hưởng đến các nghiệp vụ bảo lãnh khác. Sau khi đã xây dựng được hệ thống quản trị rủi ro bảo lãnh, kết quả đánh giá rủi ro từng khoản bảo lãnh sẽ là cơ sở để CN tính phí bảo lãnh cho khách hàng. Như vậy, phí bảo lãnh mới thể hiện đúng quy tắc cân bằng lợi nhuận nhận được và rủi ro phải chịu.
- Chi nhánh cũng cần phải căn cứ vào công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng trong việc xây dựng biểu phí. Với các khách hàng có rủi ro thấp hơn nên được hỗ trợ, khuyến khích bằng cách giảm mức phí.
Chính sách mức ký quỹ có mục tiêu là giảm rủi ro, tăng độ an toàn cho ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng nào cũng đều muốn khách hàng ký quỹ nhiều, vừa an toàn vừa có thêm nguồn vốn chi phí thấp để kinh doanh. Tuy nhiên, khi khách hàng ký quỹ tức là khách hàng đã bị chiếm dụng vốn, có thể làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng. Chính sách ký quỹ cũng là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng bảo lãnh của khách hàng, bởi vì không có doanh nghiệp nào muốn mình bị chiếm dụng vốn quá nhiều, tiền nằm nhàn rỗi không sinh lời. Một chính sách ký quỹ hợp lý phải đảm bảo được hai mục tiêu: thứ nhất là tạo ra độ an toàn nhất định cho ngân hàng, thứ hai là ở mức có thể chấp nhận được của khách hàng, tức là không làm giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Để xây dựng được chính sách ký quỹ hợp lý chi nhánh có thể thực hiện các giải pháp sau:
- Gắn mức ký quỹ với mức độ rủi ro của khách hàng và mức độ rủi ro của khoản bảo lãnh. Ví dụ bảo lãnh thanh toán có rủi ro lớn hơn các nghiệp vụ bảo lãnh khác cho nên mức ký quỹ cho nghiệp vụ bảo lãnh này phải cao hơn; đồng thời khách hàng yêu cầu bảo lãnh có rủi ro cao (đánh giá thông qua công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng) thì sẽ phải ký quỹ nhiều hơn các khách hàng có mức rủi ro thấp hơn. CN có thể xây dựng cách tính mức ký quỹ thực tế thông qua phương pháp đánh