Phân Tích Chất Lượng Bảo Lãnh Của Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa


Bảng 2.9: Tỷ trọng của các loại bảo lãnh

Đơn vị: tỷ đồng, %


Năm

2004

2005

2006



Giá trị

%

Giá trị

%

Giá trị

%

Bảo lãnh dự thầu

36,687

20,05

59,235

21,34

45,894

19,56

Bảo lãnh thực hiện

hợp đồng

64,262

35,12

97,014

34,95

87,822

37,43

Bảo lãnh thanh toán

9,734

5,32

9,882

3,56

9,456

4,03

Bảo lãnh hoàn thanh

toán

5,727

3,13

4,552

1,64

5,420

2,31

Bảo lãnh bảo hành

66,567

36,38

106,896

38,51

86,039

36,67

Tổng

182,977

100,00

277,579

100,00

234,630

100,00

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.

Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa - 7

Nguồn:Phòng tổng hợp, chi nhánh NHCT Đống Đa

là hai loại này. Bên cạnh đó hai loại nghiệp vụ bảo lãnh này thường có giá trị bảo lãnh rất lớn nên doanh số bảo lãnh có thể rất cao dù số món bảo lãnh có thể không nhiều bằng các loại bảo lãnh khác. Trong các loại bảo lãnh mà CN đang thực hiện thì bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh hoàn thanh toán có tỷ trọng rất thấp, thường chỉ chiếm từ 2-5% trong tổng doanh số bảo lãnh. Điều này xuất phát từ nguyên nhân là nhu cầu hai loại bảo lãnh này hiện nay không nhiều và rủi ro của nghiệp vụ bảo lãnh này thường cao đặc biệt là bảo lãnh thanh toán nên số lượng bảo lãnh hai loại này ở CN NHCT Đống Đa còn hạn chế


Tình hình đảm bảo cho các khoản bảo lãnh

Bảng 2.10: Phân loại bảo lãnh theo tỷ lệ ký quỹ

Đơn vị: tỷ đồng, %


Năm

2004

2005

2006

Giá trị

%

Giá trị

%

Giá trị

%

Ký quỹ 0%

82,925

45,32

139,261

50,17

109,220

46,55

Ký quỹ 5%

73,465

40,15

108,922

39,24

98,028

41,78

Ký quỹ 10% - 90%

0,695

0,38

4,858

1,75

3,519

1,50

Ký quỹ 100%

26,587

14,53

24,538

8,84

23,862

10,17

Tổng

182,977

100,00

277,579

100,00

234,630

100,00


Nguồn:Phòng tổng hợp, chi nhánh NHCT Đống Đa


Theo bảng số liệu 2.12 ta thấy các khoản bảo lãnh không có tài sản đảm bảo vẫn chiếm tỷ lệ rất lớn trên 45%. Các khoản bảo lãnh chỉ ký quỹ 5% cũng chiếm tới trên 40%. Trong khi đó các khoản bảo lãnh có tỷ lệ ký quỹ từ 10% trở lên luôn chiếm một tỷ lệ khá nhỏ trong tổng số. Điều này phản ánh rằng đang tồn tại một cơ cấu bất hợp lý và tiềm ẩn nhiều rủi ro trong tài sản bảo lãnh của ngân hàng. Hiện tượng này có thể được giải thích thông qua việc đánh giá khách hàng bảo lãnh của chi nhánh. Đối tượng khách hàng bảo lãnh chủ yếu của chi nhánh là các doanh nghiệp nhà nước có quan hệ làm ăn truyền thống và vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp. Họ đã quen được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước so với các doanh nghiệp khác, do vậy họ thường không đồng ý ký quỹ khi yêu cầu ngân hàng bảo lãnh.

Phân loại bảo lãnh theo thời hạn

Từ số liệu bảng 2.13 ta thấy bảo lãnh của CN chủ yếu là bảo lãnh ngắn hạn chiếm trên 60% tổng doanh số bảo lãnh; bảo lãnh trung hạn cũng chiếm một phần đáng kể (từ 25% đến 30% tổng doanh số bảo lãnh); còn bảo lãnh dài hạn chỉ chiếm một tỷ lệ rất ít dưới 10% tổng doanh số bảo lãnh. Do bảo lãnh dài hạn có rủi ro cao, khó quản lý và kiểm soát nên CN rất thận trọng khi thực hiện các khoản bảo lãnh dài hạn


Bảng 2.11: Phân loại bảo lãnh theo thời hạn

Đơn vị: tỷ đồng, %


Năm

2004

2005

2006


Giá trị

%

Giá trị

%

Giá trị

%

Bảo lãnh ngắn hạn (dưới 1 năm)

119,191

65,14

176,624

63,63

151,219

64,45

53,887

29,45

71,810

25,87

62,881

26,80

Bảo lãnh dài hạn (trên 10 năm)

9,899

5,41

29,146

10,50

20,530

8,75

Tổng

182,977

100,00

277,579

100,00

234,630

100,00

Bảo lãnh trung hạn (1-5 năm)

Nguồn:Phòng tổng hợp, chi nhánh NHCT Đống Đa


2.2.2. Phân tích chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thươngĐống Đa

Căn cứ vào lý thuyết đã được trình bày ở trên, chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa được phân tích qua hệ thống các chỉ tiêu:

- Doanh số bảo lãnh:

Doanh số bảo lãnh phát sinh trong 3 năm qua có những diễn biến lên xuống không đều. Năm 2005, doanh số bảo lãnh tăng mạnh so với năm 2004, tăng 94, 602 tỷ, tương đương 51,7%. Nhưng sang năm 2006, doanh số bảo lãnh lại giảm 42,949 tỷ tương đương 15,47% so với năm 2005. Doanh số bảo lãnh của chi nhánh sang năm 2006 giảm một phần nhưng xét trong xu hướng của cả thời kỳ, doanh số bảo lãnh của CN vẫn tăng trưởng đều.


Giá trị bảo lãnh

300,000

250,000

200,000

150,000

100,000

50,000

0,000

277,579

234,630

182,977

2004

2005

Năm

2006

Tỷ đồng

Biểu đồ 2.1: Mức biến động của doanh số bảo lãnh theo năm


- Giá trị ghi nợ bắt buộc:

Các khoản bảo lãnh của CN luôn mang lại sự thuận lợi trong hoạt động của bên được bảo lãnh và sự tin tưởng, an toàn cho bên nhận bảo lãnh. Chưa có một

khoản bảo lãnh nào do CN thực hiện mà khách hàng được bảo lãnh lại vi phạm cam kết đã thỏa thuận với bên nhận bảo lãnh. Vì vậy, đến nay, việc ghi nợ bắt buộc của CN cho khách hàng được bảo lãnh chưa từng xảy ra.

- Các khoản bảo lãnh có vấn đề:

Bảng 2.12: Phân loại bảo lãnh theo khả năng trả nợ của khách hàng

Đơn vị: tỷ đồng, %


Năm

2004

2005

2006


Giá trị

%

Giá trị

%

Giá trị

%

Bảo lãnh nhóm 1

166,930

91,23

247,267

89,08

206,334

87,94

Bảo lãnh nhóm 2

16,047

8,77

30,312

10,92

28,296

12,06

Bảo lãnh nhóm 3,4,5

0

0

0

0

0

0

Tổng

182,977

100,00

277,579

100,00

234,630

100,00

Nguồn:Phòng tổng hợp, chi nhánh NHCT Đống Đa


Từ số liệu bảng 2.13 cho ta thấy, trong 3 năm qua CN không có các khoản bảo lãnh có vấn đề tức là các khoản bảo lãnh được xếp vào nhóm 3,4,5; các khoản bảo lãnh nhóm 2 cũng chiếm tỷ lệ rất ít chỉ trên dưới 10%. Trong tổng doanh số bảo lãnh của CN chủ yếu là các khoản bảo lãnh nhóm 1, tuy nhiên tỷ lệ này lại đang giảm dần theo các năm.

- Cơ cấu bảo lãnh của CN:


Bảng 2.13:Loại hình khách hàng được bảo lãnh

Đơn vị: tỷ đồng, %


Năm

2004

2005

2006


Giá trị

%

Giá trị

%

Giá trị

%

Doanh nghiệp

lớn


130,938


71,56


193,695


69,78


169,426


72,21

Doanh nghiệp

nhỏ và vừa


49,12932


26,85


81,053


29,20


63,632


27,12

Cá nhân

2,909

1,59

2,831

1,02

1,572

0,67

182,977

100,00

277,579

100,00

234,630

100,00

Tổng

Nguồn:Phòng tổng hợp, chi nhánh NHCT Đống Đa

Theo số liệu bảng 2.13 ta thấy doanh số bảo lãnh của CN tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp lớn, tỷ trọng chiếm trên dưới 70% trong tổng doanh số bảo lãnh. Bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ (dưới 30% tổng doanh số).

Bảng 2.14: Phân loại bảo lãnh theo thành phần kinh tế

Đơn vị: tỷ đồng, %


Năm

2004

2005

2006


Giá trị

%

Giá trị

%

Giá trị

%

DN quốc doanh

104,754

57,25

155,805

56,13

131,510

56,05

DN ngoài quốc

doanh


75,313


41,16


118,943


42,85


101,548


43,28

Cá nhân

2,909

1,59

2,831

1,02

1,572

0,67

Tổng

182,977

100,00

277,579

100,00

234,630

100,00

Nguồn:Phòng tổng hợp, chi nhánh NHCT Đống Đa

Từ bảng 2.14 ta thấy doanh số bảo lãnh của CN phần lớn vẫn tập trung vào các doanh nghiệp quốc doanh (trên 55 % tổng doanh số), tuy nhiên các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng đã chiếm một tỷ lệ đáng kể (trên 40% tổng doanh số). Sự chênh lệch trong tỷ trọng doanh số bảo lãnh của hai loại hình doanh nghiệp này ngày càng giảm cho thấy CN đang trong quá trình tìm kiếm và đa dạng hóa khách hàng. Chắc chắn trong tương lai tỷ trọng khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ tăng đáng kể và chiếm phần lớn trong tổng doanh số bảo lãnh của CN.

Như vậy, cơ cấu bảo lãnh của CN hiện nay vẫn là tỷ trọng của các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là chủ yếu. Cơ cấu này chưa thật sự theo kịp xu hướng chung của cơ cấu kinh tế nước ta hiện nay.

- Lợi nhuận thu được từ dịch vụ bảo lãnh:

Bảng 2.15: Tình hình thu phí bảo lãnh

Đơn vị: tỷ đồng



2004

2005

2006

25,562

30,983

27,165

Tổng thu từ dịch vụ

248,541

286,825

223,772

Thu phí bảo lãnh

Nguồn:Phòng tổng hợp, chi nhánh NHCT Đống Đa


Thu phí bảo lãnh

350

300

250

200

150

100

50

0

Thu phí bảo lãnh

Tổng thu từ dịch vụ

2004

2005

Năm

2006

Tỷ đồng

Biểu đồ 2.2: Biến động của doanh thu bảo lãnh và tổng doanh thu của CN trong năm 2004 - 2006


Từ số liệu bảng 2.15, ta thấy phí bảo lãnh thu được trong 3 năm qua so với tổng thu từ dịch vụ còn chiếm một tỷ lệ nhỏ, chỉ khoảng 10% trong tổng thu từ dịch vụ. Điều này cho thấy hoạt động bảo lãnh chưa thực sự trở thành hoạt động quan trọng và mang lại nguồn thu lớn cho CN.


2.3. Đánh giá thực trạng chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa

2.3.1. Kết quả đạt đuợc


Từ những phân tích ở phần trên, chúng ta có thể đánh giá tình hình thực hiện bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa nhìn chung vẫn tương đối tốt.

Đến nay chưa có khách hàng nào được CN bảo lãnh vi phạm cam kết bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh. Điều này chứng tỏ hoạt động bảo lãnh của CN khá an toàn, mang lại sự tin tưởng cho bên hưởng bảo lãnh khi tiếp nhận cam kết bảo lãnh của CN.

Các dịch vụ bảo lãnh mà CN cung cấp đang ngày một hoàn thiện và có chất lượng hơn, đem lại sự hài lòng cho khách hàng. Điều này được thể hiện ở chỗ thời gian thẩm định và quyết định bảo lãnh đã nhanh hơn, cán bộ tín dụng đã có kinh nghiệm hơn trong nghiệp vụ bảo lãnh.

Doanh số bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa dù trong năm 2006 có giảm do một số nguyên nhân nhưng xét trong cả giai đoạn thì xu hướng chung vẫn là tăng đáng kể.

Số lượng khách hàng đến yêu cầu bảo lãnh tại CN đã nhiều lên không chỉ bao gồm các doanh nghiệp quốc doanh mà còn có các thành phần kinh tế khác.

Hoạt động bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa đã làm tăng cường thêm mối quan hệ giữa CN với các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy các dịch vụ khác cùng phát triển. Đặc biệt, dịch vụ bảo lãnh của chi nhánh đã phần nào đáp ứng được nhu cầu cần bảo lãnh của một bộ phận doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Những kết quả mà CN đã đạt được xuất phát từ một số nguyên nhân sau:

- Chi nhánh đã không ngừng cố gắng nỗ lực tìm kiếm khách hàng, tìm hiểu và đáp ứng nhu cầu của khách hàng tận tình.

- Chi nhánh được nâng cao về công nghệ ngân hàng, trang thiết bị ngân hàng, rút ngắn được thời gian thẩm định bảo lãnh, đem lại sự nhanh chóng, thuận tiện và sự hài lòng cho khách hàng yêu cầu bảo lãnh.

- Đội ngũ cán bộ tín dụng trẻ, năng động, nhiệt tình, lịch sự luôn làm cho khách hàng cảm thấy thoải mái, tin tưởng, làm tăng sự tín nhiệm của các khách hàng đối với CN. CN giữ được rất nhiều bạn hàng có quan hệ làm ăn lâu năm, có những khách hàng hàng năm yêu cầu ngân hàng bảo lãnh hàng trăm món. Kết quả đó một phần là nhờ chi nhánh có một đội ngũ nhân viên nhiệt tình luôn làm vừa lòng khách hàng.

- Chi nhánh rất chú trọng và làm tốt công tác thẩm định khách hàng khi thực hiện quy trình bảo lãnh.Với kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong nghề, việc thẩm định khách hàng của CN luôn được tiến hành rất kỹ lưỡng, chuẩn và chính xác. Vì vậy, cho đến nay CN chưa phải thanh toán hộ khách hàng một khoản bảo lãnh nào

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân


2.3.2.1. Hạn chế

Từ những phân tích về chất lượng bảo lãnh ở phần trên, chúng ta có thể thấy chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng của mình.

Doanh số bảo lãnh phát sinh của CN NHCT Đống Đa biến động thất thường trong thời kỳ năm 2004 - 2006. Năm 2005, doanh số bảo lãnh phát sinh tăng nhưng sang năm 2006 doanh số bảo lãnh lại giảm đáng kể.

Hiện nay các nghiệp vụ bảo lãnh của chi nhánh chưa thực sự đa dạng và phong phú. Nghiệp vụ bảo lãnh chủ yếu và thường xuyên là bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh mở L/C….

Cơ cấu bảo lãnh của CN hiện nay vẫn còn chưa thực sự phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế nước ta hiện nay chủ yếu các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng tỷ lệ các khoản bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở CN chưa cao. Ngoài ra, tỷ lệ khách hàng là các doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm đa số. Do đó, cơ cấu bảo lãnh của CN chủ yếu là các khoản bảo lãnh tín chấp và bảo lãnh ký quỹ 5% (hai loại này chiếm một tỷ lệ trên 80% trong tổng doanh số bảo lãnh).

Chất lượng bảo lãnh của CN chưa thật sự tốt xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.

2.3.2.2. Nguyên nhân

Nguyên nhân khách quan

- Năng lực của khách hàng bảo lãnh còn thấp:

Năng lực tài chính, vốn tự có, năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Các khách hàng được bảo lãnh mặc dù đã đáp ứng được phần nào tiêu chuẩn trong quá trình thẩm định của CN nhưng nhìn chung năng lực tài chính và năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này vẫn chưa cao, nên khả năng không thực hiện được cam kết với bên thứ ba cũng không nhỏ hay nói cách khác là rủi ro các khoản bảo lãnh tương cao.

- Rủi ro trong kinh doanh của khách hàng khá lớn

Rủi ro trong kinh doanh của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay khá lớn, xuất phát từ môi trường kinh doanh chưa thực sự hiệu quả, lành mạnh. Các quy định pháp lý của nhà nước còn thiếu chặt chẽ và chưa điều tiết được hoạt động kinh tế.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/05/2022