Tăng cường khả năng về quản lý, đầu tư, pháp luật cưỡng chế và các giải pháp hỗ trợ, phòng ngừa ô nhiễm môi trường nước, không khí, tiếng ồn và chất thải độc hại, nâng cao nhận thức và kiến thức; cung cấp thông tin đầy đủ về phòng ngừa ô nhiễm cho toàn cộng đồng.
Xây dựng quy hoạch phát triển bền vững cho các khu đô thị, khu công nghiệp, nông thôn và các vùng sinh thái.
Áp dụng công nghệ sạch, công nghệ thích hợp trong sản xuất và xử lý ô nhiễm môi trường.
Đảm bảo thực hiện được tiêu chuẩn về môi trường tiệm cận với tiêu chuẩn của các nước phát triển
Bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Tăng cường khả năng quản lý, đầu tư, pháp luật cưỡng chế và các giải pháp hỗ trợ để thực hiện bảo tồn phát triển và sử dụng bền vững đa dạng sinh học của các hệ sinh thái: biển, trên cạn, rừng và dưới nước.
Bảo vệ, khôi phục và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên hiện có như tài nguyên đất, rừng, nước, khoáng sản và đa dạng sinh học… phục vụ sự nghiệp phát triển bền vững đất nước.
Bảo tồn các vùng có hệ sinh thái đặc thù để duy trì cân bằng sinh thái, nâng tổng diện tích các khu bảo vệ đa dạng sinh học lên khoảng 2% diện tích tự nhiên của cả nước.
Cải thiện môi trường:
Có thể bạn quan tâm!
- Môi Trường Trong Vấn Đề Marketing Tại Một Số Doanh Nghiệp Khác
- Đánh Giá Chung Về Thực Trạng Áp Dụng Môi Trường Trong Vấn Đề Marketing Của Các Doanh Nghiệp Tại Việt Nam
- Bối Cảnh Quốc Tế Và Trong Nước Liên Quan Tới Môi Trường Trong Vấn Đề Marketing Của Các Doanh Nghiệp Tại Việt Nam
- Môi trường trong vấn đề Marketing của một số doanh nghiệp tại Việt Nam - 12
- Môi trường trong vấn đề Marketing của một số doanh nghiệp tại Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Tăng cường khả năng quản lý, đầu tư, pháp luật cưỡng chế và các giải pháp hỗ trợ để tiến tới xử lý triệt để các cơ sở sản xuất có công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Tiến tới thu gom, xử lý cơ bản các chất thải rắn, chất thải công nghiệp, chất thải bệnh viện và chất thải sinh hoạt ở thành phố và các khu dân cư đông đúc.
Tăng cường phục hồi và trồng mới rừng, tiến tới đạt mức độ che phủ trên 40% diện tích cả nước vào năm 2010.
Hạn chế sử dụng các hóa chất độc hại như phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, chất bảo quản nông sản, thủy sản…
Phấn đấu đến năm 2010 đảm bảo trên 90% dân số được dùng nước hợp vệ sinh và các hệ thống vệ sinh đạt tiêu chuẩn môi trường, xử lý cơ bản các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái môi trường nghiêm trọng do hậu quả của chiến tranh để lại hoặc do hậu quả của quá trình sản xuất kinh doanh gây ra.
Chiến lược phát triển môi trường của đất nước trong giai đoạn tới, chỉ mới đưa ra những quy định có tính chất như những nỗ lực nhằm nâng cấp và bảo vệ môi trường tự nhiên ở Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp chúng ta không thể nằm ngoài chiến lược phát triển chung của đất nước. Do vậy việc các doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa tới vấn đề môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình là một yêu cầu tất yếu.
2.3. Khả năng đáp ứng yêu cầu về môi trường của Việt Nam còn thấp
Do yêu cầu về chất lượng môi trường trong các sản phẩm của người tiêu dùng nội địa còn thấp cũng như chưa có đông người tiêu dùng quan tâm đến vấn đề này nên các doanh nghiệp trong nước thời gian qua chưa thực sự chú ý tới môi trường trong vấn đề marketing của mình. Tuy nhiên, đối với các sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt là sang các thị trường có yêu cầu cao về chất lượng môi trường của sản phẩm như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản,… thì khả năng đáp ứng yêu cầu về môi trường của sản phẩm chúng ta còn hạn chế. Nhiều lô hàng thủy sản, thịt, rau quả của ta xuất khẩu sang EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản trong những năm qua vừa bị trả lại hoặc bị cảnh báo do chứa dư lượng độc tố và vi sinh cao, chất lượng bao bì không đảm bảo, quá trình vận chuyển chưa khoa học,… Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu chưa nhận thấy vai trò quan trọng của môi trường trong vấn đề marketing. Nếu như từ cuối những năm
1980 trên thế giới bắt đầu xuất hiện khái niệm về marketinh xanh (green marketing) và hiện nay nó đã trở thành xu hướng chung cho các doanh nghiệp thì tại Việt Nam, khái niệm marketing xanh còn rất mới lạ. Do vậy, để các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam đáp ứng tốt các tiêu chuẩn, quy định quốc tế về môi trường ngay bản thân các doanh nghiệp phải hiểu rõ và đẩy mạnh môi trường trong vấn đề marketing của doanh nghiệp.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH MÔI TRƯỜNG TRONG MARKETING CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
1. Giải pháp đối với nhà nước
1.1. Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn môi trường quốc gia trên cơ sở các yêu cầu quốc tế và đặc thù của Việt Nam
Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn môi trường quốc gia có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu môi trường trong nước cũng như các tiêu chuẩn môi trường quốc tế. Một hệ thống tiêu chuẩn môi trường được xây dựng trên cơ sở khoa học, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, tính đến điều kiện đặc thù của doanh nghiệp trong nước sẽ là công cụ hữu hiệu để quản lý môi trường, hướng dẫn các doanh nghiệp áp dụng để hoạt động kinh doanh có hiệu quả và bảo vệ môi trường. Hiện tại Việt Nam cũng đã có một số văn bản pháp luật quy định về môi trường như: Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 (trong đó chương V có quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ); Bộ tiêu chuẩn môi trường và các văn bản pháp có liên quan. Tuy nhiên thực tế cho thấy khả năng tiêu chuẩn hóa của nước ta còn rất thấp, vì vậy chúng ta cần phải nhanh chóng hoàn thiện những tiêu chuẩn quốc gia tương ứng với tiêu chuẩn quốc tế về môi trường như các tiêu chuẩn ISO 14000, HACCP và các tiêu chuẩn môi trường của WTO. Chúng ta có thể học tập kinh nghiệm của Trung Quốc trong vấn đề này. Đối với ngành dệt may nói riêng, để đáp ứng yêu cầu xanh – sạch của các nước nhập khẩu, từ năm 2003, Trung Quốc chính
thức thi hành Tiêu chuẩn quốc gia mới GB 18401 – 2001 đối với Formandehit thoát ra từ các sản phẩm dệt may. Tiêu chuẩn này quy định các giới hạn Formandehit phân giải như sau: 20mg/kg đối với những sản phẩm dùng cho trẻ sơ sinh (dưới 24 tháng tuổi); 75 mg/kg cho các sản phẩm tiếp xúc trực tiếp với da và 300 mg/kg đối với các sản phẩm không trực tiếp tiếp xúc với da và dùng trong nhà. Các mức trong tiêu chuẩn này hoàn toàn đồng nhất với các ngưỡng giới hạn Formandehit của “nhãn sinh thái” Oeko –Tex standard 100 nổi tiếng ở Châu Âu và một số nước phát triển. Trung Quốc đã xây dựng bộ tiêu chuẩn “nhãn xanh” (standard for green label) từ năm 2001, đồng thời lập tổng sở đồ quốc gia thực hiện tiêu chuẩn, quản lý và giám sát thực hiện, tiêu chuẩn này đã hoàn thành năm 2004. [20]
Trước khi bước ra thị trường thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam cần khẳng định được vị trí của mình trên thị trường nội địa. Bởi vậy, sản phẩm của các doanh nghiệp trước hết phải đáp ứng được các yêu cầu môi trường quốc gia. Và khi các tiêu chuẩn môi trường quốc gia được xây dựng dựa trên chuẩn mực của các tiêu chuẩn quốc tế thì khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế của hàng Việt Nam khi xuất khẩu ra thị trường thế giới sẽ được nâng cao. Không chỉ có chất lượng sản phẩm mà cả chất lượng bao bì, nhãn sinh thái của sản phẩm cũng sẽ đáp ứng được các yêu cầu của thế giới. Nói cách khác, việc xây dựng bộ tiêu chuẩn môi trường quốc gia đã gián tiếp giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng tiếp cận thị trường.
1.2. Hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh việc thực hiện môi trường trong chiến lược marketing
Ngày nay, cạnh tranh trong thương mại quốc tế không phải chỉ đơn thuần là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một nước mà là cạnh tranh giữa doanh nghiệp của quốc gia này với quốc gia khác, giữa doanh nghiệp của khu vực thị trường này với khu vực thị trường khác. Vì vậy nhà nước cần có sự hỗ trợ thích hợp cho các doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh
môi trường trong vấn đề marketing của doanh nghiệp. Đặc biệt Nhà nước cần có các quy chế hỗ trợ về:
Hỗ trợ tài chính: Để thực hiện tốt môi trường trong marketing, doanh nghiệp cần đầu tư từ khi nghiên cứu thị trường cho đến hết vòng đời sản phẩm. Hiện tại các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn có quy mô vừa và nhỏ, thiếu vốn nên việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đáp ứng được các tiêu chuẩn môi trường trong quá trình sản xuất cũng như viêc đạt được các chứng chỉ môi trường là rất khó khăn. Nhà nước nên hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp thông qua các chương trình tài trợ vùng, tài trợ theo các đơn vị doanh nghiệp, có chế độ hỗ trợ thỏa đáng đối với các doanh nghiệp coi trọng đầu tư môi trường.
Hỗ trợ thông tin: Các doanh nghiệp Việt Nam đều thiếu thông tin kinh doanh, đặc biệt là các thông tin về các quy định môi trường của các thị trường xuất khẩu. Vì vậy cần có sự hỗ trợ kịp thời, thường xuyên cho các doanh nghiệp thông qua các hội nghị, hội thảo, kênh thông tin miễn phí, các website thông tin,… giúp các doanh nghiệp có được thông tin kịp thời nhất, tránh tình trạng khi sự việc đã xảy ra doanh nghiệp vẫn chưa rõ mình vi phạm điều gì.
Hỗ trợ đào tạo nhân lực: Đây là khâu yếu nhất của Việt Nam, không chỉ ở các doanh nghiệp mà còn ở các đơn vị kiểm tra cấp chứng nhận. Tại các doanh nghiệp, thông thường các nhà lập chiến lược marketing có kiến thức chuyên môn về kinh doanh, về marketing nhưng lại không có kiến thức sâu rộng về môi trường, do đó môi trường trong vấn đề marketing của các doanh nghiệp vẫn chưa được chú trọng. Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước cần đầu tư cho việc đào tạo các chuyên gia về xây dựng và đánh giá tiêu chuẩn môi trường, nâng cấp thiết bị chuyên dùng phục vụ cho công tác đánh giá môi trường, xây dựng các trung tâm mới phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, tổ chức các lớp đào tạo cho các cán bộ môi trường nhằm nâng cao ý thức và khả năng thực hiện của doanh nghiệp.
Xây dựng quy chế thưởng, phạt nhằm khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu, sản xuất sản phẩm thỏa mãn các quy định quốc tế về môi trường. Để có được các tiêu chuẩn quốc tế cho sản phẩm các doanh nghiệp phải đầu tư một lượng lớn về vốn và thời gian. Để giúp doanh nghiệp nhanh chóng bù đắp một phần đầu tư, nhà nước cần xây dựng quy chế thưởng phạt hợp lý. Nếu doanh nghiệp đạt được tiêu chuẩn quốc tế, Nhà nước có thể thưởng bằng tiền, bằng sự hỗ trợ tài chính, bằng hỗ trợ hoạt động xúc tiến xuất khẩu (đối với doanh nghiệp xuất khẩu). Doanh nghiệp càng giữ uy tín cho sản phẩm càng dài thì càng được hưởng nhiều ưu đãi. Ngược lại, những doanh nghiệp được sự hỗ trợ của Nhà nước nhưng sản phẩm làm ra, hàng xuất khẩu không đạt tiêu chuẩn quy định sẽ bị phạt. Mức phạt cao nhất là tạm dừng sản xuất cho đến khi nào sản phẩm đạt tiêu chuẩn về môi trường.
1.3. Nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về chất lượng môi trường của sản phẩm
Yếu tố quan trọng nhất, có tác động quyết định đối với chiến lược marketing của doanh nghiệp chính là nhu cầu của người tiêu dùng. Bất kỳ doanh nghiệp nào đều phải dựa trên những nghiên cứu về nhu cầu hiện tại và tương lai của người tiêu dùng để đưa ra quyết định cho chiến lược marketing của mình. Bởi vậy, một trong những biện pháp hữu hiệu nhất nhằm đẩy mạnh môi trường trong vấn đề marketing của doanh nghiệp chính là nâng cao nhận thức của người tiêu dùng nội địa đối với chất lượng môi trường của sản phẩm. Trong những năm vừa qua, sau một loạt các sự việc liên quan đến chất lượng sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm thực phẩm, người tiêu dùng cũng bắt đầu chú ý nhiều hơn tới chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, có thể thấy hiện nay nhu cầu của người tiêu dùng trong nước đối với các sản phẩm sinh thái chưa cao. Với bộ phận người tiêu dùng quan tấm tới chất lượng và xuất xứ của sản phẩm, trước hết chỉ vì vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm và sức khỏe của
chính họ chứ chưa ý thức được vấn đề bảo vệ môi trường trong các sản phẩm đó.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do ý thức chung của người dân về vấn đề bảo vệ môi trường chưa cao. Trong nhận thức của mỗi người, vấn đề bảo vệ môi trường thuộc trách nhiệm của Bộ tài nguyên môi trường. Và rất nhiều người cho rằng bảo vệ môi trường chỉ đơn giản là việc giữ gìn vệ sinh khu vực mình sinh sống chứ chưa nhận thấy tác động của mỗi sản phẩm mình đang sử dụng tới môi trường. Dường như đó lại là vấn đề của các nhà sản xuất…
Để từng bước nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vấn đề môi trường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Nhà nước và các cơ quan có chức năng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền các quy định quốc gia và quốc tế về môi trường một cách rộng rãi trong công chúng. Đồng thời từng bước, đưa các quy định đó vào đời sống sinh hoạt của người dân. Thường xuyên tổ chức các chương trình tìm hiểu về tác động của môi trường tới đời sống xã hội, đặc biệt là tác động của hoạt động sản xuất kinh doanh đến môi trường. Bên cạnh đó, thường xuyên tổ chức các chương trình truyền hình, phát thanh về ảnh hưởng của chất lượng môi trường của sản phẩm tới lợi ích của người tiêu dùng sản phẩm đó nói riêng và tới toàn xã hội nói chung thông qua đó, hướng người tiêu dùng tới việc sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường, loại bỏ dần các sản phẩm mà việc sản xuất gây ô nhiễm môi trường. Việc tuyên truyền này, trước tiên nên được tiến hành thông qua các tổ chức giáo dục đào tạo như việc đưa vào chương trình học từ cấp tiểu học tới cao đẳng, đại học những môn học về môi trường, về chất lượng môi trường của sản phẩm. Với tầng lớp nhân dân nên thực hiện tuyên truyền qua các cơ quan đoàn hội tập thể như hội phụ nữ, tổ dân phố,… Vấn đề môi trường là vấn đề mang tính chất lâu dài nên các biện pháp nhằm nâng cao
nhận thức của toàn dân về môi trường cũng cần được tiến hành trong một thời gian dài và có kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn tiến hành.
2. Giải pháp đối với doanh nghiệp
2.1. Nâng cao nhận thức và ý thức của các thành viên trong doanh nghiệp về môi trường và bảo vệ môi trường trong vấn đề marketing
Môi trường trong vấn đề marketing vẫn còn là một khái niệm mới đối với nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp chỉ hiểu đơn giản môi trường trong vấn đề marketing của doanh nghiệp là việc quảng cáo, giới thiệu về các tính năng thân thiện với môi trường của sản phẩm. Đó mới chỉ là một phần nhỏ trong chiến lược marketing của doanh nghiệp. Vấn đề môi trường phải được đề cập đến trong toàn bộ quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, nhận thức về môi trường và nhất là về các quy định, tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế về môi trường là nhận thức của toàn doanh nghiệp. Mọi người phải nhận thức được vai trò quan trọng của môi trường trong toàn bộ chiến lược marketing, bắt đầu từ khi nghiên cứu thị trường cho tới khi kết thúc vòng đời sản phẩm. Đảm bảo các quy định của môi trường trong quá trình sản xuất không phải chỉ là công việc của những người trực tiếp sản xuất mà là trách nhiệm của tất cả mọi người trong doanh nghiệp. Một chiến lược marketing môi trường chỉ có thể áp dụng thành công khi người lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng của môi trường trong chiến lược marketing đó cũng như trong định hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp và tự nguyện áp dụng các tiêu chuẩn môi trường trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, lãnh đạo doanh nghiệp cũng cần phải nâng cao nhận thức của toàn bộ đội ngũ cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp, giúp họ hiểu thấu đáo về tư tưởng chỉ đạo, các lợi ích của việc áp dụng các quy định quốc tế về môi trường và ý thức bảo vệ môi trường. Để làm được điều này, ban lãnh đạo luôn luôn phải xây dựng một chiến lược marketing dài hạn mà trong đó vấn đề môi trường được xem như