LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 2014 là năm thứ năm trong quá trình khôi phục kinh tế sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009. Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, kinh tế trong nước tiếp tục gánh chịu lạm phát tăng cao, thời tiết diễn biến phức tạp, dịch bệnh vẫn xảy ra trên cây trồng, vật nuôi… Những yếu tố bất lợi đã tác động mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh và gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống dân cư.
Ngay từ những tháng đầu năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã quán triệt nhiệm vụ và thực hiện nhiều giải pháp với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội. Với mục tiêu này, ngày 12 tháng 04 năm 2010 Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ban hành quy định về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống của nông dân và cư dân sống ở nông thôn. Kèm theo Nghị định này, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT VN) đã có Quyết định số 881/QĐ-HĐQT-TDHo ngày 16 tháng 07 năm 2010 về ban hành quy định thực hiện.
Để thực hiện chính sách này có hiệu quả thì nhu cầu vốn đòi hỏi là rất lớn – từ nội lực các gia đình, hộ kinh doanh, từ ngân sách và nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, trên thực tế việc mở rộng cho vay đối với Hộ sản xuất ngày càng khó khăn do món vay nhỏ, chi phí nghiệp vụ cao, đối tượng vay gắn liền với điều kiện thời tiết, nắng mưa bão lụt, hạn hán nên ảnh hưởng rất lớn đến đồng vốn vay, khả năng rủi ro luôn tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng.
Bởi vậy, mở rộng tín dụng phải đi kèm với nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng là mục tiêu hàng đầu của Ngân hàng
thương mại. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Phúc Thọ không phải một ngoại lệ. Ngân hàng phục vụ chủ yếu cho Hộ nông dân, các tổ chức cá nhân kinh doanh, các yếu tố sản xuất nông nghiệp. Ngân hàng là nhân tố để giúp cho các hộ có nguồn vốn làm ăn, có được các mức lãi suất ưu đãi để phát triển. Nhiều hộ đã thu nhập khá hơn sau khi sử dụng nguồn vốn của ngân hàng. Bên cạnh thành công đã đạt được, ngân hàng vẫn chưa phát huy tối đa tiềm năng để phục vụ đời sống của nhân dân được tốt hơn, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo nguồn thu cho xã hội.
Có thể bạn quan tâm!
- Mở rộng tín dụng Hộ sản xuất của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Phúc thọ - thành phố Hà Nội - 1
- Vai Trò Của Tín Dụng Đối Với Sự Phát Triển Kinh Tế Hộ Sản Xuất
- Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Mở Rộng Tdnh Đối Với Hộ Sản Xuất
- Kinh Tế Hộ Góp Phần Khai Thác Và Sử Dụng Có Hiệu Quả Đất Đai, Tài Nguyên Và Công Cụ Lao Động
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Nhận thức được những vấn đề trên và xuất phát từ thực tiễn cho vay Hộ sản xuất của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Phúc Thọ, tác giả quyết định chọn đề tài “Mở rộng tín dụng Hộ sản xuất của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng những lý luận cơ bản và những đặc trưng của tín dụng Hộ sản xuất để phân tích đánh giá thực trạng việc đầu tư cho vay Hộ sản xuất tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Phúc Thọ.
Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp và kiến nghị với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Phúc Thọ và các ban ngành có liên quan nhằm mở rộng đầu tư vốn cho các Hộ sản xuất để làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo trả nợ được nguồn vốn vay ngân hàng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng Hộ sản xuất tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Phúc Thọ.
- Phạm vi nghiên cứu: Các Hộ sản xuất vay vốn phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn cư trú và có cơ sở hoặc dự án sản xuất kinh doanh
trên địa bàn huyện Phúc Thọ trong giai đoạn 2012-2014, từ đó đưa ra giải pháp mở rộng tín dụng Hộ sản xuất trong những năm tiếp theo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh theo không gian và thời gian trên cơ sở số liệu thống kê.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, các sơ đồ, bảng biểu và kết luận, kết cấu của luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở luận về mở rộng tín dụng Hộ sản xuất của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng mở rộng tín dụng Hộ sản xuất tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Phúc Thọ
Chương 3: Giải pháp mở rộng tín dụng Hộ sản xuất tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Phúc Thọ
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỞ RỘNG TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. HỘ SẢN XUẤT VÀ TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Hộ sản xuất
1.1.1.1. Khái niệm Hộ sản xuất
Hộ sản xuất ra đời và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền văn minh lúa nước. Kinh tế hộ cũng ra đời và phát triển song song với sự phát triển của cả nền kinh tế, nó đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế hộ gia đình nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Có nhiều khái niệm về Hộ sản xuất. Chúng ta có thể xem xét một số quan niệm khác nhau về Hộ sản xuất:
- Theo quan điểm của các nhà kinh tế học, Hộ sản xuất là tất cả những người cùng sống chung trong mái nhà, nhóm người đó bao gồm những người cùng huyết tộc và cùng lao động sản xuất.
- Theo các nhà kinh tế học Việt Nam, Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh.
- Trên góc độ ngân hàng: “Hộ sản xuất là một thuật ngữ được dùng trong hoạt động cung ứng vốn tín dụng cho hộ gia đình để làm kinh tế chung của cả hộ”[16]. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật Việt Nam, Hộ sản xuất được xem như một chủ thể trong các quan hệ dân cư do pháp luật quy định và được định nghĩa là một đơn vị mà các thành viên có hộ khẩu chung, tài sản chung và hoạt động kinh tế chung. Một số thuật ngữ khác được dùng để thay thế thuật ngữ “Hộ sản xuất” là “hộ”, “hộ gia đình”.
Ngày nay HSX đang trở thành một nhân tố quan trọng trong quá trình CNH-HĐH đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong quá trình xây dựng một nền kinh tế đa thành phần theo định hướng XHCN. Để phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà Nước, NHNo & PTNT ban hành phụ lục số 1 kèm theo quyết định 499A ngày 02/09/1993, theo đó khái niệm Hộ sản xuất được hiểu như sau: “Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất của mình”. Thành phần chủ yếu của HSX bao gồm: Hộ nông dân, hộ tư nhân, hộ kinh doanh cá thể, hộ gia đình xã viên, hộ nông-lâm trường viên.
1.1.1.2. Đặc điểm Hộ sản xuất
Tại Việt Nam hiện nay, trên 70% dân số là sinh sống ở nông thôn và đại bộ phận còn sản xuất mang tính chất tự cấp, tự túc. Trong điều kiện đó, hộ là đơn vị kinh tế cơ sở mà chính ở đó diễn ra quá trình phân công tổ chức lao động, chi phí cho sản xuất, tiêu thụ, thu nhập, phân phối và tiêu dùng. Hộ sản xuất có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, hộ được hình thành theo những đặc điểm tự nhiên, rất đa dạng. Tuỳ thuộc vào hình thức sinh hoạt ở mỗi vùng và địa phương mà hộ hình thành một kiểu cách sản xuất, cách tổ chức riêng trong phạm vi gia đình. Các thành viên trong hộ quan hệ với nhau hoàn toàn theo cấp vị, có cùng sở hữu kinh tế. Trong mô hình sản xuất chủ hộ cũng là người lao động trực tiếp, làm việc có trách nhiệm và hoàn toàn tự giác. Sản xuất của hộ khá ổn định, vốn luân chuyển chậm so với các ngành khác.
- Thứ hai, đối tượng sản xuất phát triển hết sức phức tạp và đa dạng, chi phí sản xuất thường là thấp, vốn đầu tư có thể rải đều trong quá trình sản xuất của hộ mang tính thời vụ, cùng một lúc có thể kinh doanh sản xuất nhiều loại cây trồng, vật nuôi hoặc tiến hành các ngành nghề khác lúc nông nhàn, vì vậy
thu nhập cũng rải đều, đó là yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển toàn diện.
- Thứ ba, trình độ sản xuất của hộ ở mức thấp, chủ yếu là sản xuất thủ công, máy móc có chăng cũng còn ít, giản đơn, tổ chức sản xuất mang tính tự phát, quy mô nhỏ không được đào tạo bài bản. Hộ sản xuất hiện nay nói chung vẫn hoạt động sản xuất kinh doanh theo tính chất truyền thống, thái độ lao động thường bị chi phối bởi tình cảm đạo đức gia đình và nếp sinh hoạt theo phong tục tập quán của làng quê.
Từ những đặc điểm trên ta thấy kinh tế hộ rất dễ chuyển đổi hoặc mở rộng cơ cấu vì chi phí bỏ ra ít, trình độ khoa học kỹ thuật thấp.
Quy mô sản xuất của hộ thường nhỏ, hộ có sức lao động, có các điều kiện về đất đai, mặt nước nhưng thiếu vốn, thiếu hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, thiếu kiến thức về thị trường nên sản xuất kinh doanh còn mang nặng tính tự cấp, tự túc. Nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước về cơ chế chính sách, về vốn thì kinh tế hộ không thể chuyển sang sản xuất hàng hoá, không thể tiếp cận với cơ chế thị trường.
1.1.2. Tín dụng Hộ sản xuất
1.1.2.1. Khái niệm tín dụng của ngân hàng thương mại
Tín dụng tồn tại trong nền sản xuất hàng hoá được biểu hiện trước hết là sự vay mượn tạm thời một số vốn tiền tệ hay tài sản mà nhờ đó người đi vay có thể sử dụng được một lượng giá trị trong một thời gian nhất định. Sau thời gian nhất định, theo thoả thuận, người đi vay hoàn trả lại một giá trị lớn hơn cho người cho vay. Phần tăng thêm đó là lợi tức tín dụng. Như vậy, quan hệ tín dụng là một loại quan hệ xã hội biểu hiện mối liên hệ kinh tế, mà trước hết dựa vào lòng tin. Khi một ngân hàng phát ra một khoản tín dụng cho một khách hàng vay, trước hết là họ tin tưởng khách hàng có khả năng trả được
món nợ đó. Tín dụng từ xa xưa vẫn dựa cơ sở lòng tin và ngày nay nó còn được pháp luật bảo hộ.
Hoạt động của tín dụng gồm hai quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng hay còn gọi là huy động vốn và cho vay.
Quỹ tín dụng (quỹ cho vay) có đặc trưng cơ bản là:
- Mục đích sử dụng quỹ tín dụng là cho vay nhằm thoả mãn nhu cầu vốn tạm thời cho sản xuất và đời sống.
- Biểu hiện vật chất của quỹ tín dụng vừa dưới hình thức hàng hoá, vừa dưới hình thức tiền tệ, trong đó hình thức tiền tệ là chủ yếu.
- Vận động của quỹ tín dụng theo nguyên tắc hoàn trả và có lợi tức. Theo giáo trình Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng của TS.
Nguyễn Minh Kiều (2009): “tín dụng là các quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời sống theo nguyên tắc hoàn trả”.[7]
1.1.2.2. Khái niệm tín dụng Hộ sản xuất của NHTM
Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như: tín dụng thương mại, tín dụng NH, tín dụng Nhà nước.
Tín dụng NH là sự tin tưởng lẫn nhau trong quan hệ đi vay và cho vay giữa các NH với các chủ thể kinh tế khác trong xã hội, được thực hiện dưới hình thức chủ yếu bằng tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Với đặc điểm tín dụng bằng tiền, vốn tín dụng NH có khả năng đầu tư vào bất cứ lĩnh vực nào của sản xuất lưu thông hàng hoá. Vì vậy, tín dụng Ngân hàng ngày càng trở thành một hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có.
Tín dụng Hộ sản xuất cũng là một loại hình tín dụng của các ngân hàng thương mại. “Tín dụng Hộ sản xuất có thể hiểu là quan hệ tín dụng ngân hàng giữa một bên là ngân hàng với một bên là Hộ sản xuất, kinh doanh hàng
hóa”[16] . Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong mọi quan hệ xã hội, có thừa kế, có quyền sở hữu tài sản, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, có tài sản thế chấp thì HSX mới có đủ khả năng và đủ tư cách để tham gia quan hệ tín dụng với ngân hàng, đây cũng chính là điều kiện cần để đáp ứng điều kiện vay vốn ngân hàng.
1.1.2.3. Đặc điểm tín dụng Hộ sản xuất
Tính chất thời vụ gắn liền với chu kỳ sinh trưởng của động vật
Tính chất thời vụ trong cho vay nông nghiệp có liên quan đến chu kỳ sinh trưởng của động, thực vật trong ngành nông nghiệp nói chung và các ngành nghề cụ thể mà NH tham gia cho vay. Thông thường tính thời vụ được biểu hiện ở những mặt sau:
- Vụ, mùa trong sản xuất nông nghiệp quyết định thời điểm cho vay và thu nợ. Nếu NH tập trung cho vay vào các chuyên ngành hẹp như cho vay một số cây, con nhất định thì phải tổ chức cho vay tập trung vào một thời gian nhất định của năm, đầu vụ tiến hành cho vay, đến kỳ thu hoạch, tiêu thụ tiến hành thu nợ.
- Chu kỳ sống tự nhiên của cây, con là yếu tố quyết định để tính toán thời hạn cho vay. Chu kỳ ngắn hay dài phụ thuộc vào loại giống cây hoặc con giống và quy trình sản xuất. Ngày nay, công nghệ về sinh học cho phép lai tạo nhiều giống mới có năng suất, sản lượng cao hơn và thời gian sinh trưởng ngắn hơn.
Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến thu nhập và khả năng trả nợ của khách hàng
Đối với khách hàng sản xuất - kinh doanh nông nghiệp nguồn trả nợ vay NH chủ yếu là tiền thu bán nông sản và các sản phẩm chế biến có liên quan đến nông sản. Như vậy sản lượng nông sản thu về sẽ là yếu tố quyết định trong việc xác định khả năng trả nợ của khách hàng. Tuy nhiên sản