sang tích cực, chủ động, sáng tạo sản xuất kinh doanh vươn lên thoát nghèo đòi hỏi phải có những thông điệp cho từng nhóm đối tượng nghèo đói khác nhau, cung cấp được ý tưởng chính (ví dụ: tự mình vươn lên, phát huy nội lực…) nhưng hiện nay tư tưởng này chỉ có trong định hướng chỉ đạo thực hiện ở văn kiện chương trình, các bài phân tích, nghiên cứu chứ chưa được thiết kế thành những thông điệp truyền thông vận động phổ biến. Rất hiếm hoạt động truyền thông marketing liên quan đến mục tiêu XĐGN có thể nhận thấy. Một trong số đó đáng kể nhất là thông điệp “kế hoạch hoá gia đình là góp phần XĐGN”. Thông điệp này nhằm mục tiêu kế hoạch hoá gia đình tuy nhiên nó cũng gắn với nội dung giảm nghèo. Ngoài ra có thể kể tới một vài dự án nhỏ do những tổ chức phi chính phủ hỗ trợ thực hiện in ấn tài liệu, hỗ trợ món tiền nhỏ.
Ở từng dự án, chính sách cũng cần có những hoạt động truyền thông marketing cung cấp thông tin để thu hút người nghèo, thuyết phục họ tiếp cận dịch vụ của chương trình, dự án. Ví dụ: dự án hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư nhằm cung cấp cho người nghèo cách thức làm ăn mới, sử dụng giống mới, kỹ thuật canh tác mới… nhưng người nghèo ở nhiều vùng vẫn không vận dụng. Lý do bởi niềm tin rằng việc áp dụng những cách thức mới này mang lại lợi ích cho họ chưa thuyết phục mà dự án không có những biện pháp truyền thông thay đổi cách nghĩ, cách làm. Ngược lại nếu có giải pháp tuyên truyền, thuyết phục trước khi cung cấp dịch vụ, làm cho người nghèo quan tâm đến những cách làm ăn mới, kỹ thuật canh tác mới thì hiệu quả thực hiện dự án sẽ cao.
Đánh giá chung về hoạt động truyền thông marketing là chưa được quan tâm đúng mức. Cụ thể: Vấn đề xác định thông điệp chính chưa được đặt ra, đánh giá mức độ niềm tin, cách nghĩ của đối tượng chưa được thực hiện; chưa xác định được mục tiêu truyền thông, kênh truyền thông, thời lượng, tần suất truyền phát.
2.2.2. Hoạt động marketing xã hội đối với nhóm đối tượng gián tiếp
Khác với nội dung marketing xã hội có đối tượng là người nghèo, đối tượng marketing xã hội là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có vai trò trong việc tổ chức, quản lý, quyết định các nội dung của chương trình khá đa dạng. Do đó việc lựa chọn từng
nhóm đối tượng mục tiêu dựa trên cơ sở nhiều yếu tố. Đặc điểm của các chương trình, dự án giảm nghèo là liên ngành, có phạm vi rộng (toàn quốc), ngân sách chi cho chương trình lớn, đối tượng hỗ trợ của chương trình nhiều, có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội quan trọng nên các quyết sách về chương trình cũng được nhiều cấp, nhiều ngành, tổ chức hội đoàn thể góp ý, quyết định… Nhiệm vụ của marketing xã hội (đứng ở góc độ cơ quan quản lý chương trình) là thuyết phục các cơ quan, tổ chức đó chấp nhận (phản đối) vấn đề gì đó, ví dụ như (ở cấp Trung ương) thuyết phục được các Bộ (Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính) đồng ý trình Chính phủ để Chính phủ trình Quốc hội bổ sung ngân sách cho chương trình XĐGN. Trong ví dụ này có 3 đối tượng thuyết phục để thông qua nội dung tăng nguồn ngân sách cho XĐGN đó là: các Bộ (Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính), tiếp đến là Chính phủ (Thủ tướng, các Phó Thủ tướng) rồi tới đối tượng là các đại biểu Quốc hội. Ở cấp địa phương, khi nguồn lực được phân bổ về địa phương thì cơ quan quản lý chương trình phải thuyết phục các cấp lãnh đạo địa phương để bảo đảm các nguồn lực này đến đúng mục tiêu, hoặc quan tâm dành thêm nguồn lực cho hoạt động của chương trình. Hiện nay, cơ quan quản lý chương trình chưa xác định công tác vận động, thuyết phục nhóm đối tượng là các cơ quan, tổ chức công quyền một cách rõ ràng, hoặc thiếu định hướng. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng và thực hiện chương trình, từng nhóm đối tượng mục tiêu được nhìn nhận tương đối rõ ràng.
Sản phẩm marketing xã hội ở đây là sự thay đổi quan niệm, nhận thức, quyết định của những cá nhân trong cơ quan, tổ chức công quyền có vai trò đối với hoạt động giảm nghèo. Để tạo được sự thay đổi mong muốn ở đối tượng mục tiêu cần phải thực hiện các hoạt động tuyên truyền vận động, thuyết phục. Gắn với từng nội dung thuyết phục cụ thể là sản phẩm cụ thể kèm theo. Nhìn chung, sản phẩm cơ bản nhất ở đây là sự thay đổi theo hướng thúc đẩy, tăng cường sự quan tâm của nhóm đối tượng đến nhiệm vụ giảm nghèo.
- Sản phẩm cốt lõi: Để cá nhân trong tổ chức công quyền hậu thuẫn cho chương trình thì họ phải có sự quan tâm đến hoạt động giảm nghèo. Mặc dù hầu hết các cán bộ của các Bộ, ngành đều quen thuộc tên “chương trình mục tiêu quốc gia
XĐGN”, chương trình 135 nhưng ý niệm của họ về vấn đề giảm nghèo chưa hẳn đã rõ ràng, thậm chí họ hình dung đó là phong trào. Vì lẽ đó, hoạt động tuyên truyền vận động những người này nhận thức sâu sắc về vấn đề nghèo đói, về chương trình, dự án giảm nghèo và về vai trò của họ trong quá trình thúc đẩy giảm nghèo là rất quan trọng. Khi họ đã nhận được đầy đủ thông tin, nhận thức sâu sắc về nghèo đói, quan tâm hơn tới công tác giảm nghèo thì họ sẽ quyết định ủng hộ những đề xuất của các cơ quan quản lý chương trình.
- Sản phẩm hiện thực: ở đây sản phẩm hiện thực là những hành vi mà chương trình khuyến khích đối tượng thực hiện thông qua vận động, tuyên truyền. Những hành vi được khuyến khích hay thuyết phục đối tượng thay đổi có thể là: đồng ý tăng kinh phí, nguồn lực thực hiện chương trình (ví dụ thuyết phục Bộ Nội vụ chấp nhận đề nghị bố trí cán bộ chuyên trách XĐGN ở những xã nghèo đặc biệt khó khăn), chủ động đề xuất, ban hành những dự án (sản phẩm, dịch vụ) mới,…
- Sản phẩm gia tăng: Với đối tượng là cá nhân trong các tổ chức, cơ quan công quyền thì sản phẩm gia tăng bao gồm sản phẩm hiện thực kết hợp với những yếu tố khác như được mời tham gia thăm quan nghiên cứu nước ngoài, được trao tặng huy chương vì sự nghiệp XĐGN…
Muốn thuyết phục những người trong các cơ quan liên quan ủng hộ đề xuất của cơ quan quản lý chương trình, chấp nhận sáng kiến, kiến nghị, đề xuất hoặc ý tưởng mới thì cần phải biết được những rào cản mà họ đối mặt, qua đó tìm hiểu những gì có thể mang lại cho họ để có thể vượt qua rào cản đó. Tuỳ vào mỗi nhóm đối tượng mà mức độ cảm nhận về chi phí, lợi ích khác nhau. Một số rào cản/chi phí thông thường mà đối tượng này cảm nhận thấy khi chuyển sang ủng hộ chương trình XĐGN là: băn khoăn về hiệu quả của những quyết định trợ giúp người nghèo, so sánh với lợi ích nếu ưu tiên cho những mục tiêu khác…Do đó, yêu cầu của vận động thuyết phục là khẳng định cho đối tượng thấy được những lợi ích mà quyết định đem lại (ví dụ: lợi ích về chính trị, xã hội, nhân văn…)
Liên quan đến xác định giá, hiện nay việc phân tích chi phí, lợi ích được thực hiện trước và trong quá trình thiết kế dự án, đề xuất chính sách XĐGN nhưng chủ
yếu tập trung vào phân tích lợi ích xã hội, ít tính đến chi phí (nhất là chi phí cơ hội) nên tạo cảm giác không khách quan. Hơn nữa, việc phân tích chi phí, lợi ích của đề xuất còn chung chung, sơ sài đôi khi không làm nổi bật những lợi ích mà đối tượng xem xét quan tâm vì vậy thiếu tính thuyết phục.
Liên quan đến vấn đề phân phối, câu hỏi đặt ra là: Ở đâu và khi nào những người trong các cơ quan công quyền thực hiện hành vi mới hay thay đổi cách nghĩ, thay đổi nhận thức? Rõ ràng, cơ quan quản lý chương trình không thể chỉ chờ đợi đối tượng tìm đến để thay đổi mà phải tạo môi trường, địa điểm phù hợp nhất để đối tượng thực hiện sự thay đổi đó. Ví dụ cơ quan quản lý chương trình tổ chức hội thảo chuyên đề, thu hút đối tượng đến tham dự hoặc tổ chức thăm quan, tập huấn cho cán bộ ở địa phương. Trong quá trình tham dự đối tượng sẽ nhận được nhiều thông tin, bằng chứng thuyết phục để thay đổi nhận thức, hành vi.
Trong những năm qua, các cơ quan quản lý chương trình đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tập huấn, thăm quan thực địa tạo được môi trường tốt để các cơ quan, ban ngành các cấp chuyển đổi hành vi, quan niệm nhưng nhìn chung còn thiếu và việc chuẩn bị chưa tốt, hiệu quả thuyết phục chưa cao (một số bằng chứng cụ thể được trình bày ở phần sau của báo cáo).
Liên quan đến hoạt động truyền thông marketing đối với nhóm đối tượng mục tiêu là các cá nhân, tổ chức công quyền thực tế lại được thực hiện tương đối tốt. Trước hết, do ý nghĩa chính trị quan trọng của chương trình nên các cơ quan, ban ngành từ Chính phủ đến các địa phương cơ sở đều dành sự quan tâm thích đáng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững. Đặc biệt hệ thống cơ quan thông tin, báo chí được quán triệt nên lồng ghép mục tiêu giảm nghèo vào nhiều chuyên mục, chương trình qua đó có tác dụng nhắc nhở thường xuyên các cơ quan, tổ chức. Tiếp đến là cơ quan quản lý chương trình đã in, cung cấp những tờ rơi, tờ bướm thông tin về chương trình, những cuộc gặp gỡ trao đổi, những bài báo, phóng sự…nhờ đó đã thu hút được nhiều người quan tâm, trong đó có rất nhiều người thuộc nhóm đối tượng này. Nhận thức được vai trò của những cán bộ chuyên theo dõi, nghiên cứu, giải quyết hay đề xuất ý kiến về vấn đề giảm nghèo ở các Bộ, ngành, cơ quan quản lý chương trình đã hình thành nhóm chuyên gia. Chính nhóm chuyên gia này đã tham
gia rất tích cực trong các hội nghị, hội thảo liên quan đến việc xây dựng và thực hiện nội dung dự án, chương trình.
Các chương trình quốc gia giảm nghèo có phạm vi rộng, đối tượng hưởng lợi nhiều, nhu cầu về kinh phí lớn trong khi đó nguồn lực của nhà nước hạn chế (cả ngân sách trung ương và địa phương) do đó công tác xã hội hoá thu hút nguồn lực là cần thiết. Tuy nhiên, vì nhiệm vụ xã hội hoá nguồn lực còn chưa có kế hoạch rõ ràng nên việc phân loại, xác định đối tượng mục tiêu để vận động, thuyết phục tài trợ còn rất chung chung. Căn cứ vào tình hình thực tế, các nhóm đối tượng chính sau có khả năng tài trợ cho chương trình: Cá nhân, doanh nghiệp (nhà nước và tư nhân) trong nước, cá nhân, tổ chức nước ngoài.
Nhóm đối tượng là cá nhân, doanh nghiệp trong nước có đặc điểm là số lượng lớn, hình thức trợ giúp đa dạng, tuy nhiên nguồn lực (ở khía cạnh tài chính) mà họ có thể tài trợ không lớn. Về yếu tố tâm lý, xã hội đối tượng này có đặc điểm chung là ý thức đùm bọc “lá lành đùm lá rách”, cảm thông và cơ bản khi thực hiện việc trợ giúp người nghèo họ cảm nhận giá trị nhân văn, nhân đạo. Thái độ cho rằng việc làm đó là trách nhiệm, bổn phận xã hội đã có trong các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước.
Những năm qua, rất nhiều cá nhân, tổ chức quốc tế hoạt động trong lĩnh vực từ thiện, nhân đạo và hỗ trợ phát triển tham gia hợp tác, tài trợ mục tiêu XĐGN ở Việt Nam và còn nhiều nữa những cá nhân, tổ chức quốc tế khác sẵn sàng tài trợ cho mục tiêu này. Hoạt động kêu gọi, thu hút tài trợ cho mục tiêu XĐGN được Chính phủ tích cực thực hiện. Ở phạm vi chương trình, cơ quan quản lý chương trình cũng có các hoạt động thu hút nhưng chưa có sự phân loại thành những nhóm đối tượng mục tiêu để vận động.
Trong hoạt động thu hút nguồn tài trợ trong nước và quốc tế cho mục tiêu XĐGN, vấn đề xác định đối với từng đối tượng mục tiêu cần thiết kế, cung cấp sản phẩm nào có ý nghĩa quyết định trong kết quả vận động. Hiện nay, chương trình với tên gọi của mình tiếp tục thu hút sự quan tâm, tìm hiểu của nhiều cá nhân, tổ chức trong nước và quốc tế. Nhưng thuật ngữ “xóa đói giảm nghèo” là còn quá chung chung, rộng lớn. Những người tài trợ trong và ngoài nước mong muốn là tài trợ cho
những dự án, đề xuất ở khu vực/lĩnh vực cụ thể chứ không phải là chương trình nói chung. Ngược lại, cơ quan quản lý chương trình chưa đưa ra được nhiều đề xuất, sản phẩm phù hợp đáp ứng nhu cầu đó. Phần lớn các nhà tài trợ thực hiện những dự án cụ thể như: về an toàn nơi ở cho người nghèo là dự án Carpenter (hỗ trợ nhà ở), xã hội hoá phong trào xây dựng nhà ở cho đồng bào nghèo ở Hà Tĩnh (cộng đồng dân cư), dự án nâng cao năng lực nghiên cứu hoàn thiện chương trình (dự án Vie02/001 do UNDP, SIDA tài trợ), khuyến khích sự tham gia của người dân trong xây dựng hạ tầng cơ sở xã nghèo (Oxfam UK, thực hiện ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh)…
Qua thực tế triển khai chương trình những năm qua cho thấy mặc dù nhiều cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước tham gia trợ giúp thực hiện chương trình nhưng điểm chung cơ bản của họ là ở cấp độ sản phẩm cốt lõi của các dự án, tài trợ. Các nhà tài trợ trong nước cũng như quốc tế khi hợp tác, hỗ trợ Việt Nam thực hiện mục tiêu giảm nghèo đều tìm kiếm ở đó giá trị nhân văn, tinh thần hữu nghị với mong muốn làm cho người nghèo ở Việt Nam tăng cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội, cải thiện nguồn thu nhập, nâng cao hơn chất lượng cuộc sống. Ở cấp độ sản phẩm mong muốn, chương trình có xu hướng ngày càng làm đa dạng hoá sản phẩm, mở ra những hướng, đề xuất để cho các nhà tài trợ thực hiện. Ví dụ, hướng vào xây dựng hạ tầng cơ sở giúp người nghèo tăng cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội, bình đẳng giới phát huy vai trò của Phụ nữ trong XĐGN, tăng cơ hội tiếp cận tín dụng cho người nghèo, … Mức độ đa dạng hoá sản phẩm được thể hiện rõ nhất ở cấp độ sản phẩm mở rộng. Ví dụ, cùng là nội dung bình đẳng giới trong XĐGN có các dự án cụ thể như nghiên cứu giới trong XĐGN, truyền thông về giới và phát triển, tập huấn kỹ năng phân tích giới, hỗ trợ nhóm phụ nữ tiết kiệm-tín dụng…
Kết quả của các dự án, hay đề xuất hỗ trợ được thông tin cho nhà tài trợ thông qua chính sự tham gia vào dự án của cá nhân, tổ chức đó; thông qua các hội nghị, hội thảo, báo cáo nghiên cứu đánh giá hoặc thông qua trao đổi, thảo luận giữa cơ quan thực hiện dự án và nhà tài trợ. Nhìn dưới góc độ marketing xã hội, đây vừa có ý nghĩa là hoạt động phân phối vừa là cơ hội của hoạt động truyền thông marketing. Ngoài ra, hằng năm Chính phủ, cơ quan quản lý chương trình cũng rất chú ý đến việc tổ chức hội nghị, toạ đàm với các nhà tài trợ để thông qua đó chia sẻ thông tin
về chương trình cũng như đưa ra những sáng kiến hoặc đề nghị tài trợ. Ngoài ra, chương trình còn thực hiện những nội dung như tuyên truyền về “Ngày vì người nghèo”, các chuyến thăm của lãnh đạo các tổ chức, trao tặng huy chương danh dự cho những cá nhân tổ chức đóng góp nhiều cho mục tiêu giảm nghèo; mời các nhà tài trợ tham gia xây dựng “Chiến lược tăng trưởng và XĐGN bền vững”, “chương trình XĐGN giai đoạn 2006-2010”,… qua đó khẳng định cam kết của Chính phủ Việt Nam trong cuộc chiến chống đói nghèo.
Tóm lại, trên cơ sở phân tích, đánh giá về bản thân các chương trình, dự án giảm nghèo (theo thiết kế) dưới góc nhìn marketing xã hội, rõ ràng đã có những dấu hiệu theo hướng phù hợp với yêu cầu của giảm nghèo bền vững nghĩa là các sản phẩm chính sách, dự án và các quyết định marketing hỗn hợp khác (giá, phân phối và truyền thông marketing) đã được xem xét phù hợp với nhóm đối tượng mục tiêu đồng thời hướng đến nâng cao năng lực chính quyền, năng lực người dân; cải thiện môi trường tạo điều kiện phát triển sản xuất; tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cũng như khả năng đối phó rủi ro, bảo đảm an toàn. Tuy nhiên, “triết lý” của marketing xã hội chưa thực sự đậm nét trong thiết kế các chương trình, dự án giảm nghèo nói chung.
2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG NHẬN THỨC, HÀNH VI CỦA NGƯỜI DÂN
Mục tiêu cuối cùng của các chương trình, dự án giảm nghèo là giảm tình trạng nghèo đói, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống cho người dân. Mục tiêu đó chỉ được bảo đảm bền vững nếu năng lực nhận thức, hành vi của cả người dân và cán bộ chính quyền; của các cơ quan, tổ chức, cộng đồng ngày càng tốt hơn. Việc đánh giá tình hình nghèo đói và xu hướng giảm nghèo đã được trình bày ở phần đầu của chương nhưng câu hỏi đặt ra là đã có những thay đổi như thế nào liên quan đến nhận thức hành vi của cán bộ và người dân.
Tuy nhiên, do thiếu cơ sở dữ liệu ban đầu nên việc đánh giá mức độ thay đổi về nhận thức, hành vi có nhiều hạn chế (thiếu cơ sở để so sánh trước, sau), vì vậy trong nội dung này, báo cáo đánh giá thực trạng nhận thức, hành vi của người dân và cán bộ trong những nội dung dưới đây dựa trên khảo sát thực địa và tham vấn sâu ở một số địa phương, cơ quan liên quan (mẫu nghiên cứu và bảng hỏi trong phụ
lục kèm theo). Kết quả của đánh giá này sẽ cung cấp bức tranh khái quát nhưng rõ ràng về nhận thức, hành vi của các chủ thể tham gia giảm nghèo bền vững ở Việt Nam làm căn cứ thực tiễn để đề xuất các giải pháp thúc đẩy giảm nghèo bền vững.
2.3.1. Nhận thức của người nghèo về vai trò, trách nhiệm, ý thức vươn lên
Để đánh giá về vai trò, trách nhiệm và ý thức tự cứu của 3 nhóm người dân thuộc 3 nhóm hộ, cuộc khảo sát sử dụng các câu hỏi hướng vào những nội dung như: đánh giá về bản thân mình theo mức độ quyết tâm vượt nghèo; thói quen thực tế khi nhàn rỗi; thái độ đối với các buổi tập huấn hướng dẫn cách làm ăn; và ai có trách nhiệm XĐGN. Với câu hỏi để người dân tự trả lời họ thuộc diện cố gắng vươn lên hay an phận (với 3 mức độ trả lời), kết quả thu được phản ánh sự khác biệt khá rõ giữa các nhóm (bảng 2.8).
Kết quả khảo sát cho thấy: Những hộ thoát nghèo có khát khao vươn lên hơn (64,76% khẳng định là rất cố gắng vươn lên và chỉ có 3,81% là có thái độ an phận) so với 2 nhóm còn lại và nhóm hộ rất nghèo có tỷ lệ trả lời rằng họ có thái độ an phận với cuộc sống nhiều hơn (28,57%).
Bảng 2.8: Thái độ vươn lên của các nhóm nghèo
Rất cố gắng vươn lên (%) | Có cố gắng (%) | An phận (%) | ||
Chung | 42.86 | 44.76 | 12.38 | |
Nhóm rất nghèo | 20.95 | 50.48 | 28.57 | |
Nghèo | 42.86 | 52.38 | 4.76 | |
Thoát nghèo | 64.76 | 31.43 | 3.81 | |
Chia theo tỉnh | ||||
Tuyên Quang | 33.33 | 51.11 | 15.56 | |
Hoà Bình | 33.33 | 57.78 | 8.89 | |
Bắc Ninh | 46.67 | 42.22 | 11.11 | |
Thanh Hoá | 46.67 | 46.67 | 6.67 | |
Hà Tĩnh | 68.89 | 26.67 | 4.44 | |
Đắk Lắk | 57.78 | 33.33 | 8.89 | |
Trà Vinh | 13.33 | 55.56 | 31.11 |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghèo Đói Phân Theo Khu Vực Thành Thị, Nông Thôn Qua Các Năm
- Tổng Hợp Đánh Giá Các Giải Pháp Giảm Nghèo Ở Việt Nam
- Chi Phí Chấp Nhận Thái Độ, Hành Vi Mới Ở Người Nghèo
- Nhận Thức Về Vai Trò, Trách Nhiệm Trong Giảm Nghèo
- Nhận Định Về Cách Tiếp Cận Giảm Nghèo Bền Vững
- Xu Hướng Phân Bổ Nguồn Lực Cho Giảm Nghèo Từ Quan Điểm Của Cán Bộ
Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.
Nguồn: Khảo sát thực tế phục vụ luận án
Yếu tố khu vực địa lý khá rõ ràng. Những người dân ở khu vực miền Trung (Hà Tĩnh-68,89%), đồng bằng phía Bắc (Bắc Ninh-46,67% và Thanh Hoá-46,67%) cho rằng họ rất cố gắng vươn lên nhiều hơn khu vực khác. Đáng chú ý là Đắk Lắk-