Luật Thương mại Sài Gòn năm 1972 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quy định: Quản tài viên có nghĩa vụ thu hồi các món nợ do người thứ ba thiếu. Sau khi trừ đi các khoản chi tiêu, phí tổn, phải nộp lại số tiền đã thu được vào quỹ tồn trữ trong 3 ngày và phải báo cáo với thẩm phán đã nộp rồi. Nếu nộp muộn hơn sẽ phải chịu tiền phạt. Thiết nghĩ, đây cũng là những quy định cần được xem xét, kế thừa.
Kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn quy chế phối hợp hoạt động giữa Cơ quan thi hành án dân sự và Tòa án, quy chế hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
1.2.2 Bổ sung hướng dẫn về cơ chế làm việc của Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Khi có quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản, tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản cần tổ chức phiên họp thứ nhất để phân công nhiệm vụ cụ thể cho thành viên và thông báo địa điểm, kế hoạch làm việc của Tổ. Địa điểm làm việc của Tổ là trụ sở của Toà án hoặc trụ sở cơ quan Thi hành án do Tổ trưởng quyết định sau khi trao đổi ý kiến với Thẩm phán. Phiên họp của Tổ quản lý, thanh lý tài sản chỉ được tiến hành khi có sự tham gia của ít nhất 2/3 tổng số thành viên. Các quyết định của Tổ quản lý, thanh lý tài sản bao gồm các quyết định sau: lập bảng kê tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ; đề nghị Thẩm phán tuyên bố giao dịch mà doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện vô hiệu; thu hồi tài sản mà doanh nghiệp đã giao dịch vi phạm Điều 31 của Luật Phá sản; đề nghị Thẩm phán quyết định thu hồi tài sản hoặc phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục thanh lý tài sản đã bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp đối với các trường hợp quy định tại Điều 43 của Luật phá sản, đề nghị Thẩm phán ra quyết định buộc doanh nghiệp thực hiện hoặc không thực hiện một số hành vi nhằm bảo toàn tài sản hoặc phục vụ cho việc thanh lý tài sản hoặc làm tăng thêm khối tài sản của doanh nghiệp. Những quyết định này phải có quy định chặt chẽ về thủ tục xem xét và thông qua, theo chúng tôi, nên quy định chỉ thông qua những quyết định đó khi có sự đồng ý của đa số thành viên tham gia cuộc họp, trường hợp có số phiếu ngang nhau thì ý kiến của Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản là ý kiến quyết định.
1.2.3. Cần quy định rõ hơn về việc chuyển giao tài liệu cho Toà án lưu trữ
Theo người viết, vấn đề đặt ra ở đây cần được làm rõ là tài liệu do Tổ quản lý, thanh lý tài sản lập bản chính thì được lưu giữ tại Toà án, còn bản sao thì lưu giữ tại cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, phải có quy định về việc bàn giao hồ sơ, tài liệu giữa Tổ quản lý, thanh lý tài sản và Toà án, thời gian bàn giao hồ sơ cho Toà án lưu giữ là bao lâu? Nghĩa là, trong trường hợp này cần quy định là toàn bộ hồ sơ bản chính do Tổ quản lý, thanh lý tài sản phải lưu giữ tại Toà án và trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Tổ quản lý, thanh lý tài sản giải thể thì Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản phải bàn giao hồ sơ cho Toà án và phải lập biên bản, thống kê các tài liệu bàn giao cho Toà án.
Ngoài ra, Luật cần có quy định cho phép Tổ truởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền huy động nhân viên kế toán và các cán bộ khác của cơ quan Thi hành án giúp Tổ quản lý, thanh lý tài sản hỗ trợ công tác kiểm tra sổ sách kế toán, quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo qui định của pháp luật về thi hành án dân sự, tổ chức thi hành các quyết định của Thẩm phán, đóng tài khoản khi có quyết định giải thể Tổ quản lý, thanh lý tài sản và bàn giao tài liệu khi kết thúc việc giải quyết phá sản.
1.3. Tăng cường cơ chế giám sát của chủ nợ đối với quá trình giải quyết thủ tục phá sản.
Có thể bạn quan tâm!
- Số Vụ Phá Sản Tại Tp. Hà Nội Từ 1/1/1993 Đến 31/12/2006
- Thiếu Sự Ràng Buộc Trách Nhiệm Của Chấp Hành Viên Và Tổ Quản Lý, Thanh Lý Tài Sản Trong Quá Trình Hoạt Động
- Sửa Đổi Các Quy Định Về Việc Nộp Đơn, Thụ Lý Đơn Yêu Cầu Mở Thủ Tục Phá Sản Và Việc Mở Hoặc Không Mở Thủ Tục Phá Sản
- Luật phá sản Việt Nam năm 2004 - thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội và phương hướng hoàn thiện - 11
Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.
Theo nguyên tắc giải quyết phá sản của Ngân hàng thế giới thì các quyền của chủ nợ phải được bảo đảm thông qua việc thiết lập một Uỷ ban chủ nợ để cho phép chủ nợ có khả năng tham gia chủ động vào thủ tục phá sản. Pháp luật quốc gia cần xây dựng cơ chế để Uỷ ban chủ nợ có thể giám sát hiệu quả đối với toàn bộ quá trình phá sản nhằm bảo đảm sự trung thực khách quan. Uỷ ban chủ nợ sẽ hoạt động như một cầu nối trong việc cung cấp thông tin cho các chủ nợ khác và trong việc triệu tập các chủ nợ để đưa ra quyết định về những vấn đề quan trọng. Pháp luật cần quy định các vấn đề như điều kiện và quyền bỏ phiếu, số chủ nợ cần thiết để biểu quyết, hội nghị chủ nợ và các hoạt động của hội nghị chủ nợ. đặc biệt, cần thiết lập các quy định cần thiết trong việc lựa chọn và chỉ định uỷ ban chủ nợ để thực hiện
một số hoạt động trong thủ tục phá sản. Việc thành lập Uỷ ban chủ nợ với tư cách là cơ quan thường trực của Hội nghị chủ nợ là một nhân tố cần thiết, thúc đẩy sự tham gia tích cực của chủ nợ vào quá trình giải quyết phá sản được pháp luật nhiều nước quy định. Chẳng hạn:
Theo kinh nghiệm của Mỹ thì, trong thủ tục phá sản, vai trò của các chủ nợ là rất quan trọng, đặc biệt trong việc chủ động tái tổ chức công ty. Một Uỷ ban chủ nợ được thành lập với quyền hành rất lớn. Pháp luật Mỹ không chỉ quy định một Uỷ ban chủ nợ mà trong trường hợp đặc biệt có thể có vài Uỷ ban chủ nợ (Uỷ ban đại diện người lao động, Uỷ ban đại diện chủ nợ có bảo đảm ...), các Uỷ ban này đều có sự trợ giúp của các luật sư. Tại một số nước khác như pháp luật của các nước theo khối thịnh vượng chung như Pháp ..., chủ nợ thường đóng vai trò ít quan trọng hơn trong việc giám sát vụ việc và hoạt động của người quản lý cũng như trong thủ tục phá sản nói chung. Xu hướng hiện đại là cho phép chủ nợ được quyết định những gì có lợi cho họ nhất và làm cho toà án không cần thiết phải tham gia vào việc ra ra quyết định của họ trừ trường hợp đảm bảo rằng các chủ nợ nhỏ cũng được đối xử công bằng.
Pháp luật phá sản Đức quy định bên cạnh Hội nghị chủ nợ còn có Hội đồng chủ nợ. Hôi đồng chủ nợ là một cơ quan thường trực cấp dưới của Hội nghị chủ nợ không mang tính chất bắt buộc. Đại diện trong Hội đồng chủ nợ gồm những chủ nợ được bảo đảm, chủ nợ phá sản có quyền đòi nợ lớn nhất và những chủ nợ nhỏ nhất. Trong Hội đồng chủ nợ cũng phải có một đại diện của những người lao động nếu những người lao động là chủ nợ phá sản có quyền đòi nợ không nhỏ. Thành viên Hội đồng chủ nợ do Toà án bổ nhiệm, miễn nhiệm theo yêu cầu của các chủ nợ hoặc khi xét thấy cần thiết. Thành viên Hội đồng chủ nợ giúp đỡ và giám sát người quản lý phá sản trong việc điều hành và được hưởng thù lao cho những hoạt động của mình và được trả những chi phí hợp lý đã bỏ ra khi thực hiện hoạt động với tư cách là thành viên Hội đồng. Thành viên Hội đồng chủ nợ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các chủ nợ có bản đảm, chủ nợ phá sản, nếu có lỗi vi phạm của
mình. Nghị quyết của Hội đồng chủ nợ có giá trị nếu được đa số thành viên tham gia biểu quyết tán thành.
Phù hợp với thông lệ chung của thế giới, người viết đề xuất sửa đổi quy định của LPS 2004 như sau:
+ Quy định cơ chế hoạt động của Hội nghị chủ nợ một cách độc lập khỏi sự can thiệp của Toà án (thẩm phán), hạn chế tình trạng hành chính hoá quan hệ dân sự, kinh tế. Chủ nợ có bảo đảm cần được tham gia một cách tích cực hơn vào việc xem xét và thông qua kế hoạch phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Hội nghị chủ nợ phải được quyền cử người thay thế người quản lý và điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản trong trường hợp xét thấy người quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã hiện tại không có khả năng điều hành hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động kinh doanh sẽ không có lợi cho việc bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
+ Quy định việc thành lập Uỷ ban chủ nợ với sự tham gia của một số chủ nợ nhất định nhằm tạo cơ chế tham gia một cách thường xuyên, liên tục của các chủ nợ vào quá trình giải quyết phá sản.
1.4. Bổ sung các quy định về thủ tục quản lý tài sản phá sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản
1.4.1. Cần bổ sung quy định về thủ tục kiểm kê tài sản
Theo Luật Thương mại Sài Gòn năm 1972, thủ tục kê biên được quy định khá rõ ràng, chi tiết. Quản tài viên lập bản kê khai các tài sản của doanh nghiệp, kể cả những tài sản là hàng hóa, thực phẩm không bị niêm phong, vì có thể bị hư hại. Những hàng hóa này Quản tài viên lập bản kê khai và trị giá ngay từ lúc thẩm phán lập biên bản niêm phong. Khi gỡ niêm, Quản tài viên phải lập bản kê khai tất cả các tài sản hiện còn lại của doanh nghiệp dưới sự chứng kiến của đương sự. Luật này cũng quy định về thủ tục niêm phong trước khi lập bản kê tài sản, đề phòng việc lập bản kê tài sản kéo dài, gây thất thoát tài sản.
Kiểm kê là hoạt động được thực hiện kể từ khi có quyết định mở thủ tục tuyên bố phá sản, do doanh nghiệp thực hiện dưới sự giám sát của Thẩm phán và sự chứng kiến của những chủ thể khác tham gia vụ phá sản. Công việc này đòi hỏi phải được thực hiện nhanh chóng và chính xác để đảm bo quyền lợi cho cả chủ nợ và con nợ.
Thông thường, sau khi có quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản, con nợ thường có các hành vi nhằm tẩu tán tài sản, trốn nợ. Mặt khác, tài sản tại doanh nghiệp thường tồn tại ở rất nhiều dạng khác nhau, thậm chí nằm rải rác ở nhiều nơi. Vì vậy, trong các văn bản hướng dẫn LPS 2004 cần quy định chi tiết về thủ tục niêm phong và kê biên để phòng tránh các hành vi này.
Mặt khác, theo Điều 50 LPS 2004, nếu việc kiểm kê, xác định giá trị không chính xác thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị. Như vậy, cần có quy định chi tiết hơn về thế nào là không chính xác, ở mức độ nào thì tiến hành kiểm kê lại. Đặc biệt, việc định giá trị tài sản cần phải có những quy định hướng dẫn rất cụ thể, không chỉ quy định chung chung là theo giá thị trường tại thời điểm kiểm kê. Trong hoàn cảnh nước ta nền kinh tế thị trường chưa phát triển, trình độ nghiệp vụ của các cán bộ làm công tác giải quyết phá sản, của cả doanh nghiệp và các chủ nợ về tài chính - kế toán còn nhiều bất cập, thì việc định giá các tài sản của doanh nghiệp không phải là dễ dàng, nhất là đối với các tài sản đặc biệt như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu công nghiệp… cần có những quy định khuyến khích doanh nghiệp thuê các tổ chức tư vấn tài chính - kế toán, các tổ chức định giá chuyên nghiệp tham gia đối với những vụ phá sản lớn để bo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, góp phần làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh.
1.4.2. Bổ sung quy định về cách xác định giá trị tài sản đã được kiểm kê
Theo khoản 3 Điều 50 LPS 2004: trong trường hợp Tổ quản lý, thanh lý tài sản xét thấy việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Phá sản là không chính xác thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Nghĩa
là, khi Tổ quản lý, thanh lý tài sản và doanh nghiệp không thoả thuận được về giá trị các tài sản đã được kiểm kê thì Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm thuê tổ chức có chức năng định giá hoặc thành lập Hội đồng định giá thực hiện công việc này. Song cũng có ý kiến cho rằng vì việc thuê tổ chức có chức năng định giá hoặc thành lập Hội đồng định giá là tốn kém và đòi hỏi những thủ tục phức tạp nên trong trường hợp này, Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản chỉ cần tham khảo giá thị trường hoặc tham khảo các tổ chức có chức năng định giá để đề xuất mức giá nhất định vào thời điểm kiểm kê sau đó thông qua Tổ quản lý, thanh lý tài sản theo cách biểu quyết đa số theo tinh thần của Điều 50 Luật Phá sản.
1.4.3. Bổ sung để làm rõ hơn quy định thu hồi và quản lý tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ở nước ngoài
Hiện nay, trên thế giới có hai khuynh hướng quy định về vấn đề này: một là không công nhận phán quyết giải quyết vụ phá sản của toà án nước ngoài hoặc không thừa nhận quyền thu hồi tài sản ở lãnh thổ nước sở tại của người quản lý tài sản của một nước khác ngoại trừ trường hợp điều ước quốc tế có quy định riêng. Hai là, công nhận một phần hoặc toàn bộ các phán quyết của Toà án nước ngoài như: công nhận ngay lập tức mà không cần thực hiện bất kỳ một thủ tục tư pháp hay hành chính nào; thủ tục công nhận trên cơ sở có đi có lại (Pháp, Hy Lạp, Italia); thủ tục công nhận trên cơ sở không có đi có lại (Mêhicô, Panama và Colômbia,,) và việc công nhận chỉ giới hạn trong việc thu hồi tài sản (Hà Lan, Thuỵ Điển).
Luật Phá sản năm 2004 chưa quy định về vấn đề này. Vì vậy, có khả năng bỏ sót những tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản ở nước ngoài và điều đó tất nhiên ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ nợ, do vậy trong trường hợp này chúng tôi kiến nghị, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm của Pháp, Hy Lạp và ý, theo đó Việt Nam sẽ ký kết các Hiệp định hay Hiệp Ước với các quốc gia trên thế giới theo nguyên tắc có đi có lại để bảo vệ được quyền lợi của các bên tham gia trong vụ phá sản.
Như vậy, ở nội dung này của LPS 2004, rất cần có hướng dẫn chi tiết các vấn đề liên quan đến thu hồi và quản lý tài sản như: Thủ tục thu hồi như thế nào; người có
quyền đề xuất, người ra quyết định thu hồi; người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tranh chấp, thủ tục giải quyết khiếu nại tranh chấp phát sinh, việc nhập lại tài sản vào khối tài sản phá sản như thế nào, vấn đề quản lý tài sản thu hồi được… Những nội dung này rất cần có quy định rõ, tạo điều kiện cho quá trình thực hiện dễ dàng, tránh trường hợp tắc trách, vô trách nhiệm của các cán bộ nhà nước trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
2. Nhóm giải pháp đối với Thành phố Hà Nội
2.1. Có biện pháp đủ mạnh để thúc đẩy thủ tục tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
Công ty làm ăn kém hiệu qủa thường do các nguyên nhân bên trong và bên ngoài. Các nguyên nhân bên ngoài như là các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô mà các công ty không thể kiểm soát được như: khủng hoảng, thay đổi lãi suất, thay đổi trong môi trường chính sách của chính phủ, lạm phát hay sự xuất hiện của đối thủ cạnh tranh,… Còn các nguyên nhân bên trong như các vấn đề liên quan đến chiến lược công ty, các vấn đề lãnh đạo và các vấn đề về tài chính kế toán…
Dù nguyên nhân bên trong hay bên ngoài thì doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả cũng cần phải loại bỏ. Vì trong môi trường kinh tế hội nhập như hiện nay, việc cạnh tranh gay gắt sẽ dẫn đến việc các doanh nghiệp làm ăn yếu kém, không hiệu quả bị loại bỏ là điều tất yếu. Do vậy Thành phố Hà Nội cần có các biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp làm này được phá sản sớm, đồng thời kiên quyết không giúp đỡ các doanh nghiệp yếu kém duy trì sản xuất, kinh doanh.
2.2. Kiên quyết xóa bỏ tư tưởng ỷ lại vào sự cứu xét của Nhà nước đối với những doanh nghiệp Hà Nội hoạt động không hiệu quả
Thời gian qua do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, sức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2008. Để duy trì và phát triển kinh doanh, nhiều công ty đã tự mình xây dựng và thực hiện các biện pháp kinh doanh hiệu quả. Thí dụ như Công ty Cổ phần dệt may Hà Nội (Hanosimex) đã giữ “chân” khách hàng truyền
thống, có được khách hàng mới... doanh nghiệp đã đẩy mạnh hoạt động chăm sóc khách hàng, khai thác thế mạnh làm hàng chất lượng cao để tăng giá trị gia tăng, giao hàng đúng hạn... Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn đẩy mạnh việc chủ động nguồn nguyên liệu trong nước, giảm lượng nguyên liệu nhập khẩu từ đó hạ giá thành sản xuất, đáp ứng yêu cầu khách hàng đặt đơn hàng với thời gian ngắn, đáp ứng cả những đơn hàng số lượng ít… Nhờ những biện pháp này, Hanosimex không chỉ giữ “chân” được khách hàng Mỹ, mà còn tăng thêm các khách hàng EU, Nhật Bản.
Bên cạnh những doanh nghiệp đã chủ động xây dựng các biện pháp đẩy mạnh sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, thì còn có các doanh nghiệp ỷ lại vào sự cứu xét của Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nuớc. Khi Việt Nam là thành viên của WTO, thay vì cải tiến công nghệ, cách thức tổ chức làm việc…để cạnh tranh trong một môi trường lớn thì có rất nhiều doanh nghiệp lại trông chờ vào sự bảo trợ của Nhà nước về thuế, lãi suất,… Thiết nghĩ, để tồn tại và phát triển trong một môi trường có sự cạnh tranh lớn thì tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước của các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội cần phải sớm loại bỏ.
2.3. Tăng cường nâng cao hiểu biết ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp Hà Nội về lợi ích của thủ tục phá sản và pháp luật phá sản
Để pháp luật phá sản và những quy định về quản lý và xử lý tài sản phá sản được thực thi có hiệu quả trong thực tiễn thì vấn đề nhận thức pháp luật của xã hội cũng như giới kinh doanh là hết sức quan trọng. Những nhận đúng sẽ có những hành vi, ứng xử đúng, nguyên nhân cơ bản khiến việc thực thi Luật phá sản gặp nhiều khó khăn là do những chủ thể có liên quan đến phá sản doanh nghiệp chưa nhận thức đúng và đầy đủ vầ phá sản và trình tự phá sản, do công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật phá sản còn chưa được quan tâm đúng mức. Bởi vậy, cần tuyên truyền, phổ biến nội dung của LPS 2004, đặc biệt là những quy định pháp luật về cơ chế quản lý và xử lý tài sản phá sản đến những người làm công tác nghiên cứu, lý luận, những người làm công tác áp dụng pháp luật, đặc biệt là các cán bộ trong các ngành tòa án, kiểm sát, các luật sư và đặc biệt là các doanh nghiệp để cho những đối tượng này nắm vững những quy định của pháp luật phá sản, hiểu đúng và rõ ràng