Lựa chọn đầu tư công ở Việt Nam - 1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

---------------------


NGÔ THÙY DUNG


LỰA CHỌN ĐẦU TƯ CÔNG Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HOC: TS. PHẠM THỊ HỒNG ĐIỆP


Hà Nội – 2012


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT


STT

Ký hiệu

Nguyên nghĩa

1

ADB

Ngân hàng phát triển Châu Á

2

AFTA

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

1

EPU

Ủy ban kinh tế kế hoạch

2

FDI

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

3

GDP

Tổng sản phẩm kinh tế quốc dân

4

HĐND

Hội đồng nhân dân

5

ICOR

Chỉ số hiệu quả đầu tư

6

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế

7

MTEF

Khuôn khổ chi tiêu ngân sách trung hạn

8

NPV

Giá trị hiện tại ròng

9

ODA

Viện trợ phát triển chính thức

10

USD

Đô-la Mỹ

11

UBND

Ủy ban nhân dân

12

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

13

ZPV

Zuellig Pharma Vietnam

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Lựa chọn đầu tư công ở Việt Nam - 1


DANH MỤC BẢNG


STT

Tên

Trang


Bảng 1.1

So sánh đặc điểm hình của hệ thống lựa chọn đầu tư

công trong hai mô hình kinh tế


22


Bảng 1.2

Các thành phần của hệ thống quản lý (hiệu quả) hoạt

động


28


Bảng 1.3

Quy trình thực hiện trong hệ thống quản lý dựa trên kết

quả có sự lồng ghép


30

Bảng 2.1

Hệ số ICOR khu vực đầu tư công thời kỳ 2002 – 2011

44


DANH MỤC HÌNH


STT

Tên

Trang

Hình 1.1

Lựa chọn công

14

Hình 1.2

Quy trình lập kế hoạch đầu tư công

19


Hình 1.3

Quy trình ngân sách trong hệ thống kế hoạch từ trên

xuống


27


Hình 1.4

Các yếu tố của hệ thống quản lý dựa trên kết quả có sự

lồng ghép


30

Hình 2.1

Quy trình lập kế hoạch top-down

37

Hình 2.2

Tỷ trọng vốn đầu tư Nhà nước trong nền kinh tế

39


Hình 2.3

Đầu tư tại Việt Nam phân theo thành phần kinh tế từ

năm 1995 – 2011


40

Hình 2.4

Quan hệ chiến lược, quy hoạch và kế hoạch

50

Hình 2.5

Hệ thống các chủ thể tham gia kế hoạch hóa

52

Hình 2.6

Quy trình bottom-up

57


DANH MỤC HỘP


STT

Tên

Trang

Hộp 1.1

Nội dung kế hoạch tài khóa trung hạn quốc gia

26


Hộp 2.1

Việc lựa chọn các nhà đầu tư cho các dự án công được

quy định bởi Luật Đấu thầu năm 2005


62

Hộp 2.2

Tính chất bình quân trong phân bổ vốn đầu tư công

68


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, trong những năm gần đây, Việt Nam đã dành một nguồn lực đáng kể cho đầu tư công. Đầu tư công có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Nó là một công cụ kinh tế hiệu quả của Nhà nước để tác động đến nền kinh tế - xã hội.

Về kinh tế, đầu tư công là một công cụ giúp phân phối lại các nguồn lực của đất nước. Thứ nhất là trực tiếp đầu tư vào một số ngành kinh tế mũi nhọn (dầu khí, viễn thông…), khuyến khích phát triển các dịch vụ an sinh xã hội (giáo dục, y tế…), sản xuất và cung ứng các hàng hoá công cộng (đường xá, cầu cống, bến cảng, sân bay…). Qua đó, đầu tư công thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân và nước ngoài, góp phầnchuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, việc Nhà nước tạo ra các hàng hóa công cộng cũng tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống của dân chúng. Như vậy, nếu bản thân thị trường đã phân phối nguồn lực một cách khá hiệu quả, trong khi Chính phủ, với nhận định của mình lại đầu tư theo hướng không làm tăng được hiệu quả, thậm chí còn làm nguồn lực tiếp tục đổ về hướng đầu tư không hiệu quả, thì sẽ dẫn đến những thiệt hại to lớn cho xã hội.

Thứ hai, đầu tư công là một công cụ quan trọng của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Đầu tư công góp phần điều chỉnh tổng cầu trong nền kinh tế, qua đó, ảnh hưởng đến các biến như giá cả, tỷ giá, lãi suất,… giúp điều chỉnh cân bằng kinh tế vĩ mô. Nếu các dự án đầu tư công khiến cho việc dư cung hay dư cầu trong nền kinh tế trầm trọng hơn, thì tác động tiêu cực của dự án đầu tư công sẽ làm thị trường mất ổn định hơn.

Về xã hội, đầu tư công là công cụ góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Thông qua các khoản đầu tư cho an sinh xã hội, chi cho xoá đói giảm nghèo, chi đầu tư hỗ trợ phát triển cho người nghèo, việc chuyển giao, phân phối lại thu nhập được thực hiện góp phần giảm bớt chênh lệch, tạo sự công bằng trong xã hội. Vì vậy có thể nói, nguy cơ ở đây chính là việc các chương trình mục tiêu quốc gia có thể vô tình chuyển giao thu nhập cho những người không thực sự cần - nhầm lẫn về đối tượng.


Hơn nữa, việc đầu tư xoá đói giảm nghèo và chi hỗ trợ phát triển cho người nghèo sẽ giúp giảm đi số lượng người sống dưới mức trung bình của xã hội từ đó trật tự và an ninh xã hội cũng được cải thiện.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự không hiệu quả của một dự án, danh mục dự án đầu tư công, chương trình đầu tư công hay một kế hoạch đầu tư công bao gồm cả những nguyên nhân mang tính khách quan và những nguyên nhân thuộc về nội tại quá trình tiến hành đầu tư công. Những nhân tố mang tính khách quan thường là những nhân tố đã tồn tại từ lâu và ảnh hưởng vô cùng lớn đến tất cả các hoạt động kinh tế khác, đặc biệt là chúng không thể thay đổi một cách nhanh chóng và dễ dàng. Trong khi đó, các nguyên nhân chủ quan là những nguyên nhân xuất phát từ nội tại quá trình quản lý đầu tư công, bao gồm các bước từ khâu lập kế hoạch đầu tư công, thẩm định các dự án đầu tư công, phân bổ vốn cho các dự án đầu tư công và thực hiện dự án cũng như kiểm tra, giám sát thực hiện dự án. Đây là những điểm mà chúng ta có thể tác động làm thay đổi thực trạng đầu tư công.

Lựa chọn đầu tư công là một trong những nhân tố cơ bản quyết định hiệu quả của đầu tư công. Lựa chọn đầu tư công có thành phần chính là quy trình lập kế hoạch đầu tư công. Tuy nhiên, nếu chỉ xét riêng quy trình lập kế hoạch đầu tư công thì không đầy đủ, mà cần phải xét đến các yếu tố về mặt thể chế, cơ chế tác động đến lập kế hoạch đầu tư công, ví dụ như:cơ chế điều phối nền kinh tế, các nhóm lợi ích, cơ chế ra quyết định trong Nhà nước... Khi đó, quy trình lập kế hoạch không chỉ đơn thuần mang tính chất nghiệp vụ mà được nhìn nhận như một quy trình lựa chọn đầu tư công.

Lựa chọn đầu tư công có vai trò quan trọng đối với đầu tư công, nó xác định danh mục các dự án được thực hiện, xác định mức độ ưu tiên thực hiện của các dự án, thời gian cụ thể của từng dự án, các bộ phận có liên quan đến việc thực hiện và quy trình thực hiện một cách cụ thể của từng dự án. Nếu bước lập kế hoạch đầu tư công mà có sai lầm hay trục trặc, thì sẽ khiến các bước tiếp sau không còn ý nghĩa. Các bước thực hiện, kiểm tra thông thường được tiến hành theo những bước kế hoạch đã định sẵn. Vì vậy, có thể nói, lập kế hoạch là khâu quan trọng nhất trong


quản lý đầu tư công. Nghiên cứu tìm hiểu đặc điểm, các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình này sẽ giúp chúng ta cải thiện được hiệu quả của đầu tư công nói riêng và quản lý nhà nước về kinh tế nói chung.

Chính vì vậy, lựa chọn đầu tư công có thể được coi là một nhân tố quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả đầu tư công. Và việc nghiên cứu lựa chọn đầu tư công là vấn đề mang tính cấp thiết và có ý nghĩa, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang khủng hoảng và Việt Nam đang trên đà tăng trưởng chậm lại.

Ở nước ta, mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế từ sau khi đổi mới luôn được chú trọng nghiên cứu. Đầu tư công và hiệu quả của đầu tư công là một mảng trong vấn để lớn nêu trên. Sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường thể hiện rất rò qua việc đầu tư vào lĩnh vực nào, đầu tư bao nhiêu, phương pháp đầu tư như thế nào… Đầu tư công càng có vai trò lớn thì tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả đầu tư công càng lớn. Trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, đầu tư công càng cần phải được lập kế hoạch cụ thể và hợp lý để nâng cao hiệu quả. Tình trạng suy thoái kinh tế những năm gần đây, từ 2007 đến nay, có nguyên nhân chủ yếu từ việc đầu tư không hợp lý trong một thời gian dài trước đó. Khu vực kinh tế Nhà nước tuy đóng góp một phần lớn trong GDP của cả nước nhưng hiệu quả của vốn đầu tư cho khu vực này luôn thấp, thể hiện ở chỉ số ICOR luôn cao hơn mức trung bình của nền kinh tế khoảng 2 – 3 đơn vị. So với các nước trong giai đoạn tăng trưởng nhanh, thì ICOR của vốn đầu tư nhà nước của Việt Nam cao hơn nhiều, xấp xỉ 6,0 đơn vị. Việc nâng cao hiệu quả đầu tư công luôn là một vấn đề nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Trong đó, lập kế hoạch đầu tư công là một trọng tâm cần nghiên cứu để tìm ra các giải pháp cải thiện tình trạng của đầu tư công ở Việt Nam hiện nay.

Vì vậy, việc nghiên cứu “Lựa chọn đầu tư công ở Việt Nam”, cụ thể là quy trình lập kế hoạch đầu tư công và các nhân tố ảnh hưởng, có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, góp phần tìm ra các giải pháp cải thiện tình trạng của đầu tư công ở Việt Nam hiện nay.


2. Tình hình nghiên cứu

Các lý thuyết về kinh tế học công cộng và Tài chính công đã chỉ ra các vấn đề về hàng hóa công cộng cũng như vai trò của Nhà nước trong việc cung cấp hàng hóa công. Có thể kể ra: “Public finance” của Harvey S. Rosen, “Public economics” của Joseph E. Stiglitz, và các nghiên cứu khác của các ông về vấn đề hàng hóa công và vai trò của chính phủ trong việc đưa ra các quyết định đầu tư công. Định lý Coase và các ứng dụng của nó về xác định quyền sở hữu và các can thiệp của chính phủ. Những nghiên cứu này cung cấp khung lý thuyết cũng như một số phương pháp phân tích chính sách đầu tư công, và ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế.

Đi sâu vào quy trình đưa ra chính sách đầu tư công, với sản phẩm là các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch đầu tư công, theo nguyên lý về quản trị nói chung và quản lý nhà nước nói riêng, quá trình lập kế hoạch được coi là có tác động lớn đến hiệu quả của đầu tư công. Các lý thuyết về kinh tế học công cộng đã chỉ ra một số mô hình, nguyên tắc và định lý cho việc thực hiện các lựa chọn công trong đó có việc ra quyết định đầu tư công. Định lý về tính không thể của Arrow cho thấy rất khó để có thể chọn ra một phương án hợp lý. Vì vậy, các phương án biểu quyết và lựa chọn cũng như quá trình biểu quyết hay lựa chọn có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến kết quả của chọn lựa. Trên thế giới việc nghiên cứu quá trình đi đến quyết định tập thể trong việc hoạch định và triển khai chính sách công khá phổ biến. “Lựa chọn công cộng – Một cách tiếp cận nghiên cứu chính sách công” của J. Patrick Gunning đã tổng hợp và trình bày khá rò về quá trình ra quyết định của Nhà nước, các nhóm lợi ích và các giải pháp nâng cao tính dân chủ trong quá trình ra quyết định.

Ở Việt Nam, nghiên cứu của TS. Bùi Đại Dũng “Hiệu quả của chi tiêu ngân sách dưới sự tác động của vấn đề nhóm lợi ích ở một số nước trên thế giới” đưa ra tác động của các nhóm lợi ích trong quá trình hoạch định và triển khai các chương trình chi tiêu công đến hiệu quả của nó. Nghiên cứu của GS.TS Dương Thị Bình Minh “Quản lý chi tiêu công thực trạng và giải pháp” khái quát về quản lý chi tiêu công trong đó có những vấn đề trong khâu lên kế hoạch trung và dài hạn cũng như các

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/07/2022