Sự Di Chuyển Dọc Theo Đường Tổng Cầu Và Dịch Chuyển Đường Tổng Cầu


đổi cuối cùng của thu nhập tạo ra được gọi là số nhân chi tiêu. Một sự gia tăng trong tiêu dùng cũng có ảnh hưởng hoàn toàn tương tự đến tổng cầu và sản lượng cân bằng.

Trong mô hình nền kinh tế giản đơn đang nghiên cứu, số nhân có dạng:

1 1

m = =


(4.6)

1 – MPC MPS

Nói cách khác, số nhân chi tiêu trong nền kinh tế giản đơn chính là số nghịch đảo của xu hướng tiết kiệm cận biên.

Mô hình số nhân có nhiều ứng dụng trong nền kinh tế. Nằm trong vùng suy thoái, sản lượng chưa đạt mức sản lượng tiềm năng, lúc này các doanh nghiệp dễ dàng tăng sản lượng, nhờ thu hút số công nhân thất nghiệp, làm cho tỷ lệ thất nghiệp giảm số lượng việc làm tăng. Khi sản lượng gần đạt hoặc bằng mức sản lượng tiềm năng, mô hình số nhân sẽ không có tác dụng hoặc tác dụng rất nhỏ. Các doanh nghiệp lúc này sẽ không thể tăng sản lượng khi tổng cầu tăng. Mọi tác động của tổng cầu sẽ chuyển sang tăng mức giá.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

4.1.3.2. Tổng cầu trong nền kinh tế đóng

Chính phủ nên làm gì đó để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như khuyến khích đầu tư, xây dựng những con đường mới, tăng lương cho viên chức Nhà nước, giảm thuế cho người dân, hỗ trợ những ngành có khả năng xuất khẩu cao,… Tuy nhiên, Chính phủ có thể thực hiện những việc này như thế nào? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta bắt đầu xem xét xem Chính phủ có thể ảnh hưởng đến tổng cầu và do đó ảnh hưởng đến mức sản lượng cân bằng của nền kinh tế như thế nào. Dưới đây là hai cách mà Chính phủ có thể sử dụng đế ảnh hưởng đến nền kinh tế:

Kinh tế học vĩ mô - 11

- Chính phủ thu thuế (Tax) và thực hiện các khoản chuyến giao thu nhập hay trợ cấp (Tr) nhằm thay đổi thu nhập của hộ gia đình. Chênh lệch giữa thuế và chuyển giao thu nhập gọi là thuế ròng (T = Tax – Tr), hay viết tắt là thuế, tức là phần Chính phủ thực thu được từ khu vực tư nhân.

- Chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ của Chính phủ (G) trực tiếp là nhân tố của tổng cầu. Nó bao gồm các khoản chi tiêu cho đầu tư như chi tiêu cho các dự án xây dựng đường sá, sân bay, công viên và các khoản chi cho tiêu dùng của Chính phủ như trả lương cho viên chức, các trang thiết bị cần thiết để duy trì hoạt động của bộ máy Chính phủ.

a. Chi tiêu của Chính phủ và tổng cầu

Khi Chính phủ mua sắm hàng hoá, dịch vụ, tổng cầu của nền kinh tế tăng lên.

AD = C + I + G


Không có lý do nào cho thấy chi tiêu Chính phủ biến thiên theo mức sản lượng và thu nhập. Do vậy, giả định rằng dự kiến chi tiêu Chính phủ là một số được ấn định trước.

Khi đó G =

Khi chưa tính đến thuế, tổng cầu trong trường hợp này sẽ là:

AD = + MPC*Y + Ī + = + Ī + ) + MPC*Y (4.9)

Sử dụng điều kiện cân bằng của thị trường hàng hoá ta có: AD = Y

+ Ī + ) + MPC*Y = Y

1

↔ Y0 =

1 – MPC

( + Ī + ) (4.10)


↔ Y0 = + Ī + )

Chi tiêu Chính phủ cũng có số nhân bằng số nhân của tiêu dùng và đầu tư. Khi trong nền kinh tế, tiêu dùng của hộ gia đình và các doanh nghiệp không thay đổi, một sự thay đổi nhỏ trong chi tiêu của Chính phủ có thể dẫn đến một sự thay đổi lớn trong sản lượng do tác động của số nhân chi tiêu.

b. Thuế và tổng cầu

Bởi vì tiêu dùng phụ thuộc vào thu nhập khả dụng của các cá nhân – lượng thu nhập còn lại sau khi đã nộp thuế - nên việc thu thuế của Chính phủ có ảnh hưởng đến tiêu dùng. Tổng thu nhập bằng tổng sản lượng, ký hiệu là Y. Thu nhập khả dụng đơn giản là tổng thu nhập trừ đi thuế ròng: YD= Y – T.

* Sản lượng cân bằng trong trường hợp thuế không phụ thuộc vào thu nhập.

Để đơn giản, trước tiên giả định thuế là một đại lượng cho trước. Nói cách khác, Chính phủ đã ấn định số thu từ thuế ngay từ đầu năm:

T =

Lúc này, tiêu dùng sẽ phụ thuộc vào thu nhập khả dụng chứ không phải vào thu nhập. Hàm tiêu dùng khi này có dạng:

C = + MPC*YD = + MPC*(Y – ) (4.11)

Và tổng cầu sẽ là:

AD = + Ī + ) + MPC*(Y – ) (4.12)

Sử dụng điều kiện cân bằng của thị trường hàng hoá, ta xác định được sản lượng cân bằng như sau:

Y = AD = ( + Ī + ) + MPC*(Y – )



↔ Y0 = -

MPC

+

1 - MPC

1

1 – MPC

( + Ī + ) (4.13)



Nếu đặt mt = -

MPC 1 - MPC


: số nhân về thuế

→ Y0 = mt + m + Ī + )

- Mối quan hệ giữa các số nhân:

+ Số nhân về thuế và số nhân chi tiêu có dấu ngược nhau. Số nhân về thuế mang dấu âm hàm ý thuế có tác động ngược chiều với thu nhập và sản lượng. Khi thuế tăng lên, thu nhập và sản lượng giảm đi. Và ngược lại, khi Chính phủ giảm thuế, thu nhập và sản lượng tăng lên.

+ Số nhân về thuế bao giờ cũng nhỏ hơn số nhân chi tiêu về giá trị tuyệt đối và nhỏ hơn MPC lần. Và ta có m + mt = 1

+ Số nhân ngân sách cân bằng: khi Chính phủ thu thêm một lượng thuế (Δ ) để

chi tiêu thêm (Δ ) (tức là Δ = Δ ), thì sản lượng cân bằng sẽ tăng thêm một lượng đúng bằng lượng tăng thêm về thuế hoặc chi tiêu đó: ΔY* = Δ = Δ .

* Sản lượng cân bằng trong trường hợp thuế phụ thuộc vào thu nhập.

Giả thiết thuế tỷ lệ thuận với thu nhập và là một hàm của thu nhập có dạng như sau: T = t.Y

Với t là thuế suất.

Khi đó, thu nhập khả dụng:


Và hàm tiêu dùng có dạng:


YD = Y – t.Y = (1 - t)Y


C = + MPC*YD = + MPC(1 - t)Y (4.14)

Sử dụng điều kiện cân bằng của thị trường hàng hoá, ta xác định được sản lượng cân bằng như sau: Y = AD = + Ī + ) + MPC(1 - t)Y

1

↔ Y0 =

1 – MPC(1 – t)

( + Ī + ) (4.15)



Nếu đặt m’ =


1 : số nhân chi tiêu của nền kinh tế đóng với

1 – MPC(1 – t)


→ Y0 = + Ī + )

thuế phụ thuộc vào thu nhập.


Trong trường hợp này, tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu Chính phủ có cùng một số nhân. Nói cách khác, trong nền kinh tế đóng, tác dụng của việc tăng chi tiêu Chính phủ đến sản lượng cân bằng giống như tác động của việc hộ gia đình tăng thêm chi tiêu và các doanh nghiệp tăng thêm đầu tư.

Biểu diễn tác động của thuế và chi tiêu Chính phủ tới tổng cầu:


Đường 450

AD, AD = C + I

A’ AD = C + I + G


A


0 Y0

Y

Y’0


Hình 4.4: Sản lượng cân bằng của nền kinh tế đóng

Như vậy, thuế có 2 ảnh hưởng đối với tổng cầu

- Tại mỗi mức thu nhập quốc dân, thuế làm giảm thu nhập khả dụng và do đó, làm giảm tiêu dùng, từ đó làm dịch chuyển đường cầu xuống phía dưới.

- Khi mức thu thuế tỷ lệ thuận với thu nhập, thì số nhân trở nên nhỏ hơn (độ dốc của đường cầu nhỏ hơn). Bởi vì khi tổng thu nhập tăng lên 1 đơn vị, tiêu dùng tăng ít hơn trong trường hợp không có thuế do một phần thu nhập tăng lên được Chính phủ thu dưới dạng thuế.

Nếu không có thuế, khi đầu tư tăng lên 1 đơn vị, thu nhập cũng tăng 1 đơn vị, và nó làm tăng tiêu dùng bằng đúng xu hướng tiêu dùng cận biên. Sự gia tăng này của tiêu dùng sau đó lại làm tăng thu nhập quốc dân trong các vòng tiếp theo. Bây giờ với thuế suất là t, khi thu nhập tăng thêm 1 đơn vị, Chính phủ thu thuế thêm t đơn vị và thu nhập khả dụng chỉ tăng (1 – t) đơn vị. Do đó, sự gia tăng tiêu dùng khi có thuế nhỏ hơn với khi không có thuế.

4.1.3.3. Tổng cầu trong nền kinh tế mở

Cho đến nay các phân tích trên bỏ qua vai trò quan trọng của thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế có ảnh hưởng quan trọng đến thu nhập quốc dân. Xuất khẩu mở rộng thị trường cho các nhà sản xuất trong nước, trong khi nhập khẩu lại thu hẹp thị trường cho hàng hóa của các nhà sản xuất trong nước. Do đó, xuất khẩu và nhập khẩu có ảnh hưởng đến tổng cầu theo những cách khác nhau.

Tổng cầu trong nền kinh tế khi này sẽ là: AD = C + I + G + X – IM


a. Cán cân thương mại

* Nhập khẩu (IM)

Khi thu nhập của các hộ gia đình tăng, họ không chỉ mua nhiều hàng hóa sản xuất trong nước hơn mà họ cũng mua nhiều hàng hóa nhập khẩu hơn. Chúng ta có thể hình dung ra một hàm nhập khẩu theo cách giống như chúng ta đã làm với hàm tiêu dùng (còn đầu tư và chi tiêu Chính phủ được giả thiết là biến ngoại sinh, nên chúng ta không vẽ các đường liên kết chúng với thu nhập).

Hàm nhập khẩu biểu diễn các mức nhập khẩu tương ứng với các mức thu nhập khác nhau khi các biến khác ảnh hưởng đến nhập khẩu được coi là cho trước.

IM = + MPM*Y


Trong đó:

: Nhập khẩu độc lập với thu nhập (là những hàng hóa do nước khác sản xuất nhưng được đưa vào trong nước tiêu dùng dưới dạng quà biếu, tặng, viện trợ…)

MPM là xu hướng nhập khẩu cận biên (Marginal Propensity to Import).

Xu hướng nhập khẩu cận biên cho chúng ta biết lượng nhập khẩu tăng thêm khi thu nhập tăng thêm 1 đơn vị ( 0 < MPM < 1). Xu hướng nhập khẩu cận biên chính là độ dốc của đường nhập khẩu.

Trong đó ∆IM sự thay đổi của nhập khẩu ∆Y sự thay đổi của thu nhập 44

Trong đó: ∆IM: sự thay đổi của nhập khẩu

∆Y: sự thay đổi của thu nhập

* Xuất khẩu (X)

Người nước ngoài mua gì và mua bao nhiêu hàng của Việt Nam phụ thuộc trước hết vào thu nhập của họ chứ không phụ thuộc trực tiếp vào thu nhập của Việt Nam. Xuất khẩu của Việt Nam có thể phụ thuộc vào các nhân tố khác, chẳng hạn như hoạt động tiếp thị của các công ty Việt Nam và giá tương đối của hàng Việt Nam so với hàng ngoại. Tuy nhiên, điều này không liên quan đến thu nhập và sản lượng ở trong nước. Do vậy, chúng ta coi cầu về hàng hóa xuất khẩu là độc lập và cho trước.

X =


* Cán cân thương mại (NX)

Cán cân thương mại là giá trị xuất khẩu ròng – chênh lệch giữa giá trị hàng hóa xuất khẩu và giá trị hàng hóa nhập khẩu.

NX = X – IM = +MPM*Y (4.16)

Khi xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu, một nước có thặng dư cán cân thương mại.

Khi xuất khẩu nhỏ hơn nhập khẩu, một nước có thâm hụt cán cân thương mại.


b. Sản lượng cân bằng trong nền kinh tế mở

Tổng cầu của nền kinh tế mở có dạng:

AD = + Ī + + - ) + [MPC(1 - t) – MPM]*Y (4.17)

Điều kiện cân bằng của thị trường hàng hóa, ta xác định sản lượng cân bằng: Y = AD = + Ī + + - ) + [MPC(1 - t) – MPM]*Y

1

↔ Y0 =

1 - [MPC(1 - t) – MPM]

( + Ī + + - ) (4.18)



Nếu đặt m” =


1 : số nhân chi tiêu của nền kinh tế mở

1 - [MPC(1 - t) – MPM] Y* = m”* ( + Ī + + )

với thuế phụ thuộc vào thu nhập.

Số nhân chi tiêu trong nền kinh tế mở ngoài phụ thuộc vào xu hướng tiêu dùng cận biên còn phụ thuộc vào xu hướng nhập khẩu cận biên. Khi xu hướng này càng lớn, số nhân càng nhỏ. Điều này cho thấy, hàng hóa nhập khẩu có thể làm giảm sản lượng trong nước. Do đó, có thể ảnh hưởng đến việc làm, thất nghiệp trong nước.



AD, C

Đường 450


AD = C + I


AD = C + I + G


AD = C + I + G + NX



0 Y0


Y’0


Y

Y’’0


Hình 4.5: Sản lượng cân bằng của nền kinh tế mở


Chú ý: Bất kỳ khi nào, đường tổng cầu thoải hơn thì số nhân sẽ nhỏ lại. Để thấy điều này một cách chính xác trong điều kiện có thương mại, cùng xem xét lại cách thức số nhân hoạt động qua các vòng trong nền kinh tế. Ảnh hưởng của sự gia tăng đầu tư trong vòng thứ nhất được mở rộng bởi ảnh hưởng của sự gia tăng tiêu dùng trong vòng thứ hai gây ra do thu nhập cao hơn từ việc sản xuất hàng đầu tư. Điều này


lại được mở rộng tiếp bởi sự gia tăng tiêu dùng trong vòng thứ ba gây ra bởi thu nhập cao hơn của những người liên quan đến sản xuất trong vòng thứ hai. Và quá trình cứ thế tiếp diễn. Tuy nhiên, bây giờ, khi đầu tư tăng thêm 1 tỷ đồng, hiệu ứng ở vòng thứ hai chỉ là sự gia tăng cho chi tiêu sản xuất hàng hóa ở trong nước. Nếu MPC = 0,9; thuế suất t = 0,3, và MPM = 0,3 thì sự gia tăng chi tiêu cho hàng trong nước chỉ là 33 tỷ (chứ không phải là 63 tỷ như trong điều kiện nền kinh tế đóng không có thương mại hay 90 tỷ nếu không có thuế hay Chính phủ). Không chỉ tác động ở vòng thứ hai nhỏ hơn, mà tác động ở các vòng khác cũng nhỏ hơn.

Trong một nền kinh tế đóng, khi thu nhập tăng 1 đơn vị, tổng chi tiêu tăng theo xu hướng tiêu dùng cận biên từ thu nhập (MPC’ = ∆C/∆Y = MPC (1 – t)). Trong một nền kinh tế mở, khi thu nhập tăng thêm một đơn vị, tổng chi tiêu tăng thêm một lượng bằng xu hướng tiêu dùng cận biên từ thu nhập MPC’ trừ đi xu hướng nhập khẩu cận biên MPM. Sự chênh lệch giữa xu hướng tiêu dùng cận biên từ thu nhập và xu hướng nhập khẩu cận biên được gọi là xu hướng chi tiêu cận biên, hay xu hướng mua hàng trong nước cận biên, phản ánh chi tiêu về các sản phẩm sản xuất trong nước tăng bao nhiêu khi thu nhập tăng thêm 1 đơn vị.

Nếu nhiều thu nhập hơn được tạo ra trong mỗi vòng tiếp theo không được chi tiêu cho hàng hóa sản xuất trong nước, số nhân sẽ nhỏ hơn. Khi thu nhập tạo ra trong một vòng sản xuất không được sử dụng để mua hàng hóa trong nước, các nhà kinh tế gọi là có sự rò rỉ. Trong một nền kinh tế đóng, có hai khoản rò rỉ là tiết kiệm và thuế. Trong một nền kinh tế mở có ba khoản rò rỉ là tiết kiệm, thuế và nhập khẩu.

4.1.4. Sự di chuyển dọc theo đường tổng cầu và dịch chuyển đường tổng cầu

4.1.4.1.Sự di chuyển dọc theo đường tổng cầu

Sự di chuyển dọc theo đường tổng cầu phản ánh sự thay đổi của lượng tổng cầu do sự thay đổi của mức giá trong khi các biến số khác ảnh hưởng đến tổng cầu được coi là không đổi.

4.1.4.2. Sự dịch chuyển đường tổng cầu

Sự dịch chuyển của đường tổng cầu xảy ra khi có sự thay đổi của các biến số khác ngoài giá. Có một số nhân tố tác động đến đường tổng cầu như sau:

- Sự thay đổi trong tiêu dùng: nếu người tiêu dùng an tâm hơn về tình hình việc làm và thu nhập trong tương lai, Chính phủ giảm thuế thu nhập, … thì các gia đình sẽ chi tiêu nhiều hơn cho tiêu dùng hiện tại tại mỗi mức giá cho trước và kết quả là đường tổng cầu dịch chuyển sang phải.


- Sự thay đổi trong đầu tư: nếu ngân hàng nhà nước tăng cung ứng tiền tệ làm giảm lãi suất, Chính phủ giảm thuế cho các doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư thì đầu tư sẽ tăng và đường tổng cầu dịch chuyển sang bên phải.

- Sự thay đổi trong chi tiêu Chính phủ: nếu Chính phủ tăng chi tiêu nhằm đối phó với đà tăng trưởng kinh tế chậm thì đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang phải.

- Thay đổi trong xuất khẩu ròng: nếu Việt Nam xuất khẩu ít đi, hoặc đồng Việt Nam tăng giá so với đồng tiền của các đối tác thương mại thì xuất khẩu ròng của Việt Nam sẽ giảm và kết quả là đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.

4.2. TỔNG CUNG CỦA NỀN KINH TẾ

4.2.1. Khái niệm

Tổng cung (AS) là tổng khối lượng sản phẩm quốc dân mà các doanh nghiệp sẵn sàng sản xuất và bán ra trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản xuất đã cho.

Vì giá cả linh hoạt trong dài hạn và cứng nhắc trong ngắn hạn nên mối quan hệ này phụ thuộc vào khoảng thời gian mà chúng ta xem xét. Chúng ta cần phải xem xét về hai đường tổng cung khác nhau: đường tổng cung dài hạn (ASLR) và đường tổng cung ngắn hạn (ASSR)

Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung.

- Các nguồn lực: Lao động; Tài nguyên thiên nhiên; tư bản (máy móc, thiết bị và các công trình kiến trúc phục vụ cho quá trình sản xuất); công nghệ. Các nhà kinh tế sử dụng khái niệm sản lượng tiềm năng để phản ánh mức sản lượng mà nền kinh tế tạo ra khi các nguồn lực được sử dụng một cách hiệu quả.

- Mức giá chung: mức giá trung bình của nhiều loại hàng hóa (CPI, PPI, D).

- Chi phí sản xuất: Phụ thuộc vào giá các yếu tố đầu vào như tiền lương, giá nguyên liệu nhập khẩu…

4.2.2. Đường tổng cung ngắn hạn và dài hạn

Đường tổng cung là đường biểu diễn mối quan hệ giữa tổng mức cung và mức giá của nền kinh tế trong điều kiện các nguồn lực và giá cả các yếu tố đầu vào cho trước.

Hàm của đường tổng cung biểu diễn mối quan hệ giữa mức giá chung (P) và đường tổng cung (AS).

AS = f(P)

4.2.2.1. Đường tổng cung ngắn hạn


Trong ngắn hạn, có thể giả định là các nhân tố sản xuất không thay đổi, đường tổng cung trong ngắn hạn liên kết mức giá với mức sản lượng của nền kinh tế.

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 03/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí