Theo cơ cấu ngành kinh tế với tư cách là đối tượng phục vụ, các ngân hàng thương mại được chia thành hai loại: ngân hàng chuyên doanh (là ngân hàng phục vụ một ngành kinh tế - kỹ thuật) và ngân hàng kinh doanh tổng hợp (là ngân hàng phục vụ nhiều ngành kinh tế - kỹ thuật). Theo tiêu thức phân loại này, ở nước ta hiện nay có các ngân hàng chuyên doanh như ngân hàng ngoại thương, ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng đầu tư phát triển , ngân hàng chính sách xã hội..., còn ngân hàng kinh doanh tổng hợp là ngân hàng công thương. Mặc dù có sự phân chia nói trên, song trong thực tế các ngân hàng đều kinh doanh theo hướng tổng hợp. Điều đó, do trình độ xã hội hoá sản xuất và phân công lao động xã hội ở nước ta quyết định.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường nhiều thành phần và mở cửa, căn cứ vào chủ thể sở hữu về vốn khi thành lập ngân hàng, các ngân hàng thương mại được phân ra theo các hình thức tổ chức:
- Ngân hàng thương mại nhà nước, là ngân hàng thương mại được thành lập bằng 100% vốn của Nhà nước. Nó hoạt động theo những nguyên tắc của doanh nghiệp nhà nước.
- Ngân hàng thương mại cổ phần, là ngân hàng được thành lập theo hình thức công ty cổ phần, mà vốn do các cổ đông đóng góp với số cổ phần thuộc sở hữu của mỗi cổ đông không quá tỷ lệ do Ngân hàng nhà nước quy định. Sự tồn tại và hoạt động của ngân hàng này phải theo khuôn khổ luật pháp của Nhà nước và những quy định của Ngân hàng nhà nước.
- Ngân hàng thương mại tư nhân, là ngân hàng kinh doanh mà vốn thuộc sở hữu của tư nhân một chủ. Tổ chức và hoạt động của nó theo luật pháp của nhà nước và quy định của Ngân hàng nhà nước với các điều khoản riêng.
- Ngân hàng thương mại nước ngoài, là những cơ sở (chi nhánh) của nước ngoài tại Việt Nam. Sự tồn tại và hoạt động của chúng phải tuân theo luật pháp của nhà nước Việt Nam và chịu sự quản lý khống chế của Ngân hàng Nhà nước.
Sự tồn tại đa dạng các hình thức tổ chức ngân hàng thương mại như vậy là một tất yếu khách quan. Nó cho phép khai thác tối đa tiềm năng về vốn và sử dụng vốn; vừa hợp tác vừa cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
Sơ đồ khái quát hệ thống tổ chức ngân hàng ở nước ta
Hệ thống tổ chức ngân hàng
Ngân hàng thương mại |
Có thể bạn quan tâm!
- Sự Cần Thiết Chuyển Sang Cơ Chế Thị Trường Có Sự Quản Lý Của Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
- Tài Chính Trong Thời Kỳ Quá Độ Lên Chủ Nghĩa Xã Hội Ở Việt Nam
- Tín Dụng Trong Thời Kỳ Quá Độ Lên Chủ Nghĩa Xã Hội Ở Việt Nam
- Bản Chất, Đặc Trưng Cơ Bản Của Lợi Ích Kinh Tế
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin - GS.TS. Chu Văn Cập, GS.TS. Phạm Quang Phan, PGS.TS. Trần Bình Trọng - 31
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin - GS.TS. Chu Văn Cập, GS.TS. Phạm Quang Phan, PGS.TS. Trần Bình Trọng - 32
Xem toàn bộ 258 trang tài liệu này.
Phân theo cơ cấu sở hữu | ||||
Ngân | Ngân | Ngân | Ngân | |
hàng | hàng | hàng | hàng | |
thương | thương | thương | thương | |
mại | mại cổ | mại tư | mại | |
quốc tế | phần | nhân | nước | |
ngoài |
Ngân hàng chính sách xã hội
Ngân hàng công thương
Ngân hàng ngoại thương
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn
Ngân hàng đầu tư và phát triển
Ngân hàng kỹ thương
Các chi nhánh tại các tỉnh, thành phố
Phân theo đối tượng ngành phục vụ
2. Chức năng và nhiệm vụ của ngân hàng
a) Đối với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng nhà nước là cơ quan của Chính phủ có các chức năng:
- Phát hành tiền tệ, điều tiết lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán.
- Là người đại diện về tài chính, tiền tệ của Nhà nước, quản lý tiền vốn của Nhà nước, cung cấp tín dụng cho Nhà nước, nhận mua quốc trái.
- Thông qua cho vay huy động tiền gửi, tiến hành quản lý các ngân hàng và các cơ cấu tiền tệ khác, định ra chính sách tiền tệ, điều tiết giá cả và nhu cầu tiền tệ, hỗ trợ nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
Ngân hàng Nhà nước có hai nhiệm vụ cơ bản là:
- Thực hiện vai trò là chủ ngân hàng đối với các ngân hàng thương mại, bảo đảm cho hệ thống ngân hàng hoạt động bình thường.
- Thực hiện vai trò là chủ ngân hàng đối với Nhà nước, chịu trách nhiệm kiểm soát việc cung ứng tiền tệ và việc tài trợ cho thâm hụt ngân sách của Nhà nước.
Để thực hiện chức năng và nhiệm vụ cơ bản trên, Ngân hàng Nhà nước trung
ương và các chi nhánh ngân hàng ở các tỉnh, thành phố có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tham gia xây dựng các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chính sách có liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng.
- Xây dựng các dự án pháp luật, soạn thảo các văn bản pháp luật về tiền tệ, tín dụng, ngoại hối để trình cấp có thẩm quyền phê chuẩn. Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện hệ thống pháp luật đã ban hành.
- Quản lý nhà nước các hoạt động nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong tất cả các thành phần kinh tế, kể cả ngân hàng nước ngoài thông qua chính sách tiền tệ.
- Tổ chức in, đúc và bảo quản tiền dự trữ phát hành (Ngân hàng Trung ương). Quản lý lưu thông tiền tệ, khống chế lạm phát và thực hiện nghiệp vụ phát hành tiền tệ.
- Thực hiện vai trò ngân hàng của các ngân hàng kinh doanh và các tổ chức tín dụng. Nhận gửi và cho vay đối với kho bạc nhà nước để sử dụng ngân sách nhà nước.
- Bảo quản dự trữ nhà nước và quản lý nhà nước về ngoại tệ và vàng; đại diện cho Nhà nước tại các tổ chức tiền tệ, tín dụng quốc tế; trực tiếp ký kết hoặc được uỷ quyền ký kết các điều ước quốc tế về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối; lập cán cân thanh toán quốc tế; thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế.
- Bám sát diễn biến các thị trường, công bố lãi suất tối thiểu về tiền gửi, lãi suất tối đa về tiền vay, tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam với các ngoại tệ mạnh.
- Tổ chức đào tạo nghiệp vụ kinh tế và kỹ thuật cho cán bộ nhân viên của ngành.
Các công cụ chủ yếu để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng nhà
nước.
- Phát hành giấy bạc ngân hàng. Đây là một công cụ rất quan trọng gắn với chức
năng phát hành của Ngân hàng nhà nước trung ương. Thông qua việc phát hành giấy bạc đưa vào lưu thông trên phạm vi quốc gia, Ngân hàng nhà nước điều chỉnh tổng cung và tổng cầu tiền trong nền kinh tế, chi phối các ngân hàng thương mại, hướng tiền tín dụng đi vào lưu thông theo mục đích của ngân hàng phát hành.
- Hoạt động thị trường mở là công cụ mà Ngân hàng Trung ương mua và bán các chứng khoán có giá trị trên thị trường tiền tệ và trong chừng mực nhất định trên thị trường chứng khoán. Bằng việc bán các giấy tờ có giá cho các ngân hàng thương mại với lãi suất hấp dẫn, Ngân hàng Trung ương có thể làm giảm hoặc tăng lượng dự trữ tiền tệ của ngân hàng. Khi cần thu hồi (thắt chặt) tiền từ lưu thông để giảm lượng cung ứng tiền tệ trên thị trường, Ngân hàng Trung ương có thể bán các chứng khoán có giá cho các ngân hàng thương mại. Ngược lại, khi cần tăng (nới lỏng) tiền từ dự trữ ra lưu thông, Ngân hàng Trung ương có thể mua các chứng khoán có giá của các ngân hàng thương mại. Bằng cách này, Ngân hàng Nhà nước tác động đến sự cân bằng các dao động về tỷ lệ lãi suất trên thị trường tiền tệ, tăng khả năng thanh toán của các ngân hàng thương mại, củng cố và tăng cường hiệu lực của chính sách tiền tệ.
- Lãi suất chiết khấu. Đây là công cụ mà Ngân hàng Nhà nước trung ương điều tiết thị trường vốn bằng cách cho các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính tín dụng vay tiền thông qua mua thương phiếu (chính sách chiết khấu) hoặc bằng cách thế chấp chứng khoán có giá (chính sách thế chấp).
Khi cần khuyến khích khách hàng vay (ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác), Ngân hàng Trung ương hạ thấp lãi suất chiết khấu. Bằng cách đó, Ngân hàng Trung ương điều tiết tăng hoặc giảm lượng tiền cho vay của các ngân hàng thương mại theo mục tiêu vĩ mô.
- Dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc là tiền gửi của các Ngân hàng Thương mại tại Ngân hàng Trung ương. Mức tiền gửi này do pháp luật quy định. Nó còn là công cụ rất
quan trọng mà Ngân hàng Trung ương dùng để điều chỉnh tín dụng của các ngân hàng thương mại trong quản lý vĩ mô của mình để thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước.
ở nước ta, tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà các ngân hàng thương mại phải gửi vào Ngân hàng Trung ương là từ 10% đến 35% so với các khoản nợ của ngân hàng (tiền gửi của khách hàng).
Thông qua việc tăng, giảm mức dự trữ bắt buộc nằm trong khoảng giữa cận trên và cận dưới được luật pháp quy định, Ngân hàng Trung ương tác động đến việc cung cấp tiền tệ cho nền kinh tế quốc dân, khi cần thiết phải "nới lỏng" hoặc "thắt chặt".
Như vậy, mục tiêu của "dự trữ bắt buộc" theo luật pháp không phải chủ yếu để bảo đảm an toàn tiền gửi, bảo đảm thanh toán và chi trả theo yêu cầu, mà chủ yếu là nhằm làm cho Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát được mức tăng, giảm của tiền tệ qua ngân hàng theo mục tiêu mong muốn của chính sách tiền tệ.
Việc áp dụng công cụ "dự trữ bắt buộc" có ưu điểm nhưng đòi hỏi phải thực hiện nhanh chóng, kịp thời trong thời gian ngắn khi nền kinh tế quá "nóng" hoặc quá "lạnh".
Ngoài các công cụ chủ yếu đã nêu trên, Ngân hàng nhà nước khi thực thi chính sách tiền tệ còn phải sử dụng các công cụ khác như: can thiệp trên thị trường hối đoái, kiểm soát lãi suất tối đa đối với các hệ số an toàn của vốn v.v..
Hầu hết các công cụ nói trên trong thời gian dài ít được coi trọng ở nước ta cũng như ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, vì chúng được coi là những công cụ đặc trưng của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Đến nay chúng ta đã có nhận thức mới về bản chất kinh tế của những công cụ này: chủ nghĩa xã hội khác với chủ nghĩa tư bản không phải ở hình thức mà ở nội dung xã hội của các công cụ kinh tế.
b) Đối với Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng Thương mại là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động của các ngân hàng thương mại lại gắn với chức năng quản lý vi mô - chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại phải là những doanh nghiệp:
- Có tư cách pháp nhân, tự chủ về tài chính, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế và dưới quyền quản trị của hội đồng quản trị và quyền điều hành của giám đốc.
- Chịu sự quản lý vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước.
- Có quan hệ với khách hàng theo nguyên tắc tự chịu trách nhiệm về vật chất và hành chính đối với tài sản, tiền vốn và cam kết giữ bí mật về số liệu và hoạt động, cũng như tạo sự tín nhiệm và thuận lợi cho khách hàng.
- Có quan hệ với các tổ chức tín dụng khác theo nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, cùng có lợi, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau trong khuôn khổ pháp luật cùng thúc đẩy nhau phát triển.
Ngân hàng Thương mại dù được thành lập dưới hình thức nào cũng đều hoạt động
theo ba nghiệp vụ chính như: huy động vốn, cho vay và thanh toán.
+ Nghiệp vụ huy động vốn, là nghiệp vụ đầu tiên của Ngân hàng Thương mại nhằm tạo vốn để cho vay. Vốn huy động của ngân hàng bao gồm: vốn tiền tệ, vốn huy động, vốn tiếp nhận, vốn đi vay.
+ Nghiệp vụ cho vay vốn, là nghiệp vụ mà thông qua đó các nguồn vốn huy động được đem đi cho vay nhằm phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tùy theo tiêu thức phân loại, có các hình thức cho vay khác nhau như cho vay ngắn hạn, dài hạn; cho vay sản xuất và cho vay kinh doanh dịch vụ; cho vay đầu tư phát triển sản xuất; cho vay thanh toán và cho vay dự trữ.
+ Nghiệp vụ thanh toán, được thực hiện trên cơ sở sự uỷ nhiệm của khách hàng trong các khâu thanh toán, giữ hộ, đòi nợ… thông qua các hoạt động chuyển tiền, thanh toán chứng từ và phát hành chứng khoán.
Thông qua các nghiệp vụ đó, các khoản tiền phân tán được tập trung để bổ sung cho nghiệp vụ cho vay và huy động vốn, thúc đẩy hoạt động tín dụng phát triển nhanh chóng.
3. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng
ở nước ta
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của lưu thông tiền tệ nói chung, của tín dụng và ngân hàng nói riêng, góp phần củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của của Nhà nước và nhân dân, chống thất thoát và tăng tích luỹ để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hệ thống ngân hàng ở nước ta cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau đây:
- Kiềm chế lạm phát, bảo đảm tính vững chắc, từng bước ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế để có nhiều hàng hoá dịch vụ đưa vào tiêu dùng và xuất khẩu, nghiêm chỉnh thực hiện nguyên tắc "vay để cho vay", không phát hành tiền để cho vay.
- Việc xác định lãi suất tín dụng (lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay) phải căn cứ vào quan hệ cung - cầu vốn, vào hiệu quả thực tế của đồng vốn trong nền kinh tế, vào mức độ trượt giá của đồng tiền thông qua chỉ số giá cả. Tiếp tục áp dụng chính sách lãi suất dương theo nguyên tắc lãi suất cho vay cao hơn lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền gửi phải cao hơn mức lạm phát.
- Tăng cường vai trò chủ đạo của các ngân hàng thương mại nhà nước trên cơ sở hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính, đặt trong môi trường vừa hợp tác vừa cạnh tranh giữa các hình thức ngân hàng thương mại thuộc các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài ở nước ta.
- Toàn bộ hệ thống ngân hàng hướng vào phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Tạo điều kiện hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.
- Đổi mới cơ sở vật chất - kỹ thuật của bản thân ngành ngân hàng theo hướng hiện đại hoá, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng về nghiệp vụ và đặc biệt là về phẩm chất đạo đức để đáp ứng yêu cầu phát triển ngành ngân hàng trong giai đoạn mới.
IV- Lưu thông tiền tệ trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam
1. Bản chất và đặc điểm của lưu thông tiền tệ
Khi tiền tệ xuất hiện, sự trao đổi hàng hoá trực tiếp chuyển sang trao đổi hàng hoá gián tiếp - trao đổi hàng hoá lấy tiền tệ làm môi giới. Sự vận động của tiền tệ lấy sự trao đổi hàng hoá làm tiền đề gọi là lưu thông tiền tệ. Sự vận động của hàng hoá và tiền tệ là sự thống nhất của quá trình lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.
Lưu thông tiền tệ diễn ra dưới hai hình thức:
Lưu thông tiền mặt và lưu thông không bằng tiền mặt (lưu thông qua tiền tín dụng, card điện tử, những chứng khoán có giá...). Trong hai hình thức nói trên, hình thức lưu thông thứ nhất có xu hướng giảm xuống, còn hình thức lưu thông thứ hai có xu hướng tăng lên và ngày càng mang tính phổ biến, nhất là khi kinh tế thị trường và hệ thống ngân hàng phát triển theo hướng văn minh, hiện đại.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế hàng hoá tồn tại, nên tiền tệ và lưu thông tiền tệ tồn tại là tất yếu khách quan.
Sự vận động của tiền tệ chịu sự chi phối của quy luật lưu thông tiền tệ. Song, do tính chất của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chi phối, nên mục đích và bản chất của lưu thông tiền tệ không hoàn toàn giống như các xã hội dựa trên chế độ tư hữu, nhất là trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
ở nước ta, tiền tệ và lưu thông tiền tệ có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, tiền tệ và lưu thông tiền tệ từ chỗ mang nặng tính cấp phát, không ổn định, siêu lạm phát chuyển sang tính chất kinh doanh tiền tệ, khống chế và giảm mức lạm phát, củng cố sức mua đồng tiền Việt Nam để từng bước trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi.
Thứ hai, tiền tệ và lưu thông tiền tệ từ chỗ hầu như chỉ hoạt động thông qua độc quyền của hệ thống ngân hàng của Nhà nước chuyển sang hoạt động thông qua nhiều tổ chức ngân hàng thuộc các thành phần kinh tế.
Thứ ba, tiền tệ, lưu thông tiền tệ và kinh doanh tiền tệ có sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước thông qua các cơ quan chuyên môn là ngân hàng nhà nước và uỷ ban chứng khoán quốc gia.
Thứ tư, tiền tệ và lưu thông tiền tệ từ chỗ mang tính chất "khép kín" trong nước chuyển sang hoạt động theo cơ chế "mở", hội nhập với khu vực và thế giới.
2. Vai trò của lưu thông tiền tệ
ở nước ta, lưu thông tiền tệ có các vai trò sau đây:
Thứ nhất: lưu thông tiền tệ là điều kiện quan trọng bảo đảm cho tái sản xuất xã hội được thực hiện thuận lợi.
Tái sản xuất xã hội muốn tiến hành bình thường, tổng sản phẩm xã hội phải được bù đắp lại bằng giá trị, phải được thay thế bằng hiện vật, mà sự bù đắp này không tách rời sự bù đắp dưới hình thái tiền tệ và do đó không thể tách rời quá trình lưu thông tiền tệ.
Thứ hai: lưu thông tiền tệ là lĩnh vực quan trọng đối với thực hiện mục đích của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của mọi người. Muốn vậy, phải sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm xã hội, nhưng muốn cho sản phẩm xã hội đến được tay mọi người, tất yếu phải thông qua khâu lưu thông hàng hoá lấy lưu thông tiền tệ làm môi giới.
Thứ ba: lưu thông tiền tệ thông suốt với tốc độ nhanh góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Tốc độ lưu thông tiền tệ nhanh có nghĩa là việc sử dụng tiền tệ nhất định có thể tham gia vào nhiều quá trình sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm, thu được nhiều lợi nhuận, nền sản xuất xã hội phát triển với tốc độ cao, tình hình tài chính quốc gia ổn định, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện.
Thứ tư: lưu thông tiền tệ là lĩnh vực quan trọng để xúc tiến giao lưu kinh tế, kỹ thuật với bên ngoài.
Trong thời đại ngày nay, trước xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và thị trường, không có lưu thông tiền tệ không thể giao lưu kinh tế, kỹ thuật với bên ngoài. Xuất nhập khẩu, tín dụng quốc tế ... đều gắn với lưu thông tiền tệ.
Câu hỏi ôn tập
1. Phân tích bản chất và chức năng của tài chính trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Trình bày các bộ phận cấu thành hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3. Trình bày phương hướng tiếp tục đổi mới chính sách tài chính trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội và trong thập niên đầu thế kỷ XXI ở nước ta.
4. Phân tích bản chất, các hình thức, chức năng và vai trò của tín dụng ở nước ta hiện nay.
5. Trình bày sự ra đời của ngân hàng hai cấp. Trên cơ sở phân tích hệ thống ngân
hàng hai cấp, hãy cho biết sự khác nhau và vai trò của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Thương mại.
6. Hãy cho biết phương hướng tiếp tục đổi mới chính sách tín dụng và ngân hàng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập ở nước ta hiện nay.
7. Trình bày bản chất, đặc điểm và vai trò của lưu thông tiền tệ trong thời kỳ quá
độ ở nước ta.