Một số Web site đã tiến hành cung cấp các dịch vụ chat và thư điện tử miễn phí như tại các trang Web www.fpt.net, www.vnn.vn,...
Các hình thức quảng cáo trên mạng khác như button, pop- up, advertoria, tài trợ... vẫn chưa xuất hiện hoặc chưa phổ biến ở Việt Nam.
3.3. Đánh giá về chất lượng các quảng cáo
Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu sử dụng các chiến lược quảng cáo thụ động, xây dựng Web site hoặc đặt quảng cáo trên mạng và chờ khách hàng tự tìm đến với công ty của mình. Chất lượng các quảng cáo trên mạng nói chung của các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao. Khả năng tài chính hạn hẹp của các doanh nghiệp Việt Nam đã không cho phép họ đầu tư nhiều cho những công nghệ hiện đại cho các quảng cáo trên mạng cũng như việc cập nhật, thay đổi các quảng cáo đó. Bên cạnh đó, tốc độ và dung lượng đường truyền chậm cũng không cho phép triển khai các công nghệ quảng cáo phức tạp. Các Website của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay phần lớn vẫn là các Website tĩnh, không có khả năng cập nhật và tương tác, tạo giao kết trực tuyến với khách hàng. Thiết kế đơn giản, chưa đảm bảo yêu cầu bắt mắt các khách hàng, xây dựng chưa có hệ thống và khoa học khiến cho khách hàng khó khăn khi muốn biết thêm chi tiết hơn về mặt hàng. Nội dung nghèo nàn, chủ yếu là đưa ra địa chỉ liên hệ của công ty mà chưa đưa ra được mô tả chi tiết và thuyết phục về sản phẩm. Chỉ có một số ít Web site xây dựng mẫu đơn đặt hàng để khách hàng có thể đặt mua ngay sản phẩm mà mình thích. Các quảng cáo banner và logo tuy bước đầu đã sử dụng công nghệ hình ảnh động, nhưng cũng vẫn chưa có khả năng tương tác trực tiếp. Khách hàng vẫn chưa thể thực hiện mua bán ngay trên quảng cáo mà chủ yếu vẫn là dựa trên cơ chế nhấn vào quảng cáo để đưa khách hàng đến trang chủ của các doanh nghiệp.
3.4. Vấn đề thiết kế quảng cáo trên mạng
Do không có đủ các cán bộ chuyên môn về Internet và thiết kế quảng cáo trên mạng, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thường sử dụng dịch vụ thiết kế trang Web và quảng cáo do các công ty tin học và các nhà cung cấp dịch vụ Internet. Một số công ty tin học nhận thiết kế trang Web như một dịch vụ kèm theo khi trang bị mạng máy tính cho các doanh nghiệp. Bên cạnh dịch vụ thiết kế trang Web, các nhà cung cấp đường truyền còn hỗ trợ cho
khách hàng việc đăng ký tên miền, đường truyền riêng (lead- lines) và quảng cáo trên Internet.
Bảng 6: Giá thiết kế trang Web của một số đơn vị thiết kế
Giá thiết kế (đ/ trang) | Giá lưu giữ trang Web (đ/tháng) | |
VDC | 100.000- 130.000 | 100.000- 350.000 |
FPT Net | 190.000- 250.000 | 85.000- 380.000 (lưu 1 năm) 95.000- 420.000 (lưu 6 tháng) |
Saigon Net | 150.000- 200.000 | 200.000- 300.000 |
VASC | 254.500- 300.000 | 109.000- 545.000 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Ngôn Ngữ Được Các Thành Viên Của Linkexchange Sử Dụng.
- Lý Do Để Phát Triển Quảng Cáo Trên Mạng Tại Việt Nam.
- Sự Gia Tăng Của Việc Sử Dụng Máy Vi Tính Và Internet
- Những Khó Khăn Đối Với Việc Phát Triển Quảng Cáo Trên Mạng.
- Khái quát về sự hình thành và phát triển của quảng cáo trên mạng, cách tiến hành quảng cáo trên Internet và một cái nhìn khái quát về tình hình ứng dụng Internet vào hoạt động quảng cáo ở Việt Nam - 18
- Khái quát về sự hình thành và phát triển của quảng cáo trên mạng, cách tiến hành quảng cáo trên Internet và một cái nhìn khái quát về tình hình ứng dụng Internet vào hoạt động quảng cáo ở Việt Nam - 19
Xem toàn bộ 156 trang tài liệu này.
Nguồn: www.vnexpress.net
Với các lợi thế của mình, các công ty thiết kế cung cấp các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ và đưa ra những lựa chọn khác nhau cho các khách hàng. Các doanh nghiệp có thể lựa chọn chỉ thiết kế một trang Web đơn giản với các thông tin trên Internet như địa chỉ, điện thoại, số fax, email,...hoặc một trang Web phức tạp hơn với các form đăng ký mua bán, trao đổi hoặc ký gửi hàng hoá trên mạng hoặc là phần quảng cáo về sản phẩm, lĩnh vực kinh doanh, các loại hình dịch vụ. Hầu hết các doanh nghiệp thường chủ động gửi các thông tin và hình ảnh cho nhà thiết kế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng có thể liên hệ với nhà thiết kế để sử dụng kho dữ liệu ảnh trên Internet để chọn ảnh theo chủ đề. Trong trường hợp doanh nghiệp không lựa chọn được hình thức trang Web, nhà thiết kế sẽ giới thiệu một số trang Web nổi tiếng trên Internet hoặc kết nối với các trang Web của Việt Nam hiện đang hiện hữu trên mạng để tham khảo. Bên cạnh đó, các nhà cung cấp dịch vụ thiết kế hiện nay còn cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng đăng ký giới thiệu trang quảng cáo của mình trong các diễn đàn thương mại trên Internet phù hợp với ngành hàng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng có thể thuê chỗ trên máy chủ của đơn vị cung cấp các đường truyền hoặc tự trang bị máy chủ. Các nhà thiết kế cũng cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho việc quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp trên mạng như đăng ký Web site của doanh nghiệp vào các công cụ tìm kiếm trên mạng. Các công ty như FPT, VDC, VASC, Saigon Net, Phương Nam Net,...đều có các
trang Web đặc biệt để hỗ trợ thêm về quảng bá thương hiệu cho các hợp đồng dài hạn.
4. Các vấn đề pháp luật liên quan đến quảng cáo trên mạng
4.1. Luật điều chỉnh việc cung cấp thông tin, thành lập Website và quảng cáo trên mạng
Hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa có luật riêng điều chỉnh các hoạt động quảng cáo trên mạng. Luật Thương Mại và Nghị định 32/1999/NĐ- CP ngày 5/5/1999 điều chỉnh hoạt động quảng cáo và xúc tiến thương mại nói chung của các công ty, Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ quốc hội số 39/2002/PL- UBTVQH10 ngày 16/11/2001 về quảng cáo được áp dụng cho cả các hoạt động trên mạng và ngoài mạng.
Theo điều 9, Pháp lệnh số 39 của Uỷ ban thường vụ quốc hội thì mạng thông tin máy tính cũng được coi là một phương tiện quảng cáo được phép sử dụng tại Việt Nam và theo điều
11 của pháp lệnh này thì việc quảng cáo trên mạng thông tin máy tính phải được thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật về luật quảng cáo, dịch vụ truy cập, dịch vụ kết nối và việc cung cấp các loại hình dịch vụ quảng cáo trên mạng thông tin máy tính; thực hiện các quy định về kỹ thuật, nghiệp vụ nhằm đảm bảo bí mật nhà nước. Các yêu cầu về cấp phép, nội dung thông tin, phát quảng cáo và các vấn đề khác đều giống như các quy định đối với quảng cáo trên các phương tiện quảng cáo khác.
Trong thời gian qua, chúng ta đã có những nỗ lực rất lớn nhằm xây dựng hệ thống văn bản pháp luật để điều chỉnh các hoạt động quảng cáo, đưa thông tin lên mạng. Đáp ứng yêu cầu hiện nay của các tổ chức, cá nhân tại Việt Nam muốn thực hiện việc cung cấp thông tin và đưa các trang tin điện tử (Web site) lên mạng, ngày 10/10/2002, Bộ Văn hoá- Thông
tin đã ban hành Quy chế quản lý và cấp giấy phép cung cấp thông tin, thiết lập trang tin điện tử trên Internet. Các tổ chức, cá nhân muốn thành lập Web site và cung cấp thông tin trên mạng phải được Bộ Văn hoá- Thông tin cấp giấy phép, phải xác định rõ loại hình cung cấp thông tin, nội dung, các chuyên mục, tần số cập nhật thông tin, phải có đủ thẩm quyền chịu trách nhiệm về nội dung thông tin và có đủ phương tiện kỹ thuật phục vụ cho việc cung cấp thông tin, có địa chỉ tên miền hợp lệ. Bộ Văn hoá - Thông tin cũng vừa trình Chính phủ bản dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Quảng cáo trong đó quy định việc đưa các quảng cáo lên mạng phải được sự cho phép của Bộ VH- TT.
Các văn bản pháp luật này ra đời đã đáp ứng được nhu cầu cấp thiết hiện nay của ngành quảng cáo trên mạng đang thiếu một hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh. Bên cạnh đó, các văn bản này cũng có không ít những hạn chế mà cần nhanh chóng được giải quyết để tạo điều kiện thuận lợi cho ngành quảng cáo trên mạng ở Việt Nam phát triển.
Trong Quy chế quản lý và cấp giấy phép cung cấp thông tin, thiết lập trang tin điện tử trên Internet quy định rõ việc cập nhật thông tin trên các Web site phải xin giấy phép của Sở VH- TT địa phương và Bộ VH- TT. Quy định này một mặt góp phần vào việc quản lý thông tin trên Internet, mặt khác nó cản trở việc thành lập và cập nhật thông tin của các trang Web trên mạng, do các doanh nghiệp rất ngại phải xin phép cho mỗi lần cập nhật thông tin. Mà trang Web không được cập nhật thông tin thì sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu luôn đổi mới thông tin của người xem, do đó vô tác dụng. Nó cũng có thể buộc các doanh nghiệp trong nước từ chối dịch vụ tải các trang Web của các công ty trong nước
và chuyển các trang Web của họ ra nước ngoài nhờ truyền tải với giá rẻ hơn mà lại không phải chịu sự ràng buộc về phép tắc.
Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Quảng cáo cũng còn nhiều quy định cần phải xem xét và sửa đổi. Điển hình là điều 19 quy định các doanh nghiệp muốn đăng quảng cáo trên mạng Internet phải gửi sản phẩm quảng cáo lên Bộ VH- TT trước khi thực hiện quảng cáo ít nhất 10 ngày làm việc; và trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được sản phẩm quảng cáo, nếu Bộ VH- TT hoặc Sở VH- TT không đồng ý với sản phẩm quảng cáo thì phải trả lời bằng văn bản nêu rõ lý do. Quá thời hạn trên mà không có văn bản trả lời thì đơn vị được thực hiện sản phẩm quảng cáo mà mình đã gửi. Bản dự thảo cũng nêu rõ quy định này chỉ áp dụng đối với các công ty xin phép cung cấp thông tin trên mạng, không áp dụng đối với các Web site của các tờ báo, do những cơ quan này đã chịu sự kiểm soát và điều chỉnh của Luật báo chí.
Một mặt biện pháp này giúp đảm bảo an ninh, an toàn và tránh những thông tin sai lệch được truyền tải trên Internet, mặt khác nó cản trở việc phát triển quảng cáo trên mạng, đi ngược lại chủ trương phát triển TMĐT và gây khó khăn cho chính các nhà quản lý. Việc quy định tất cả các quảng cáo trên Internet phải được sự cho phép của Bộ Văn hoá- Thông tin sẽ nảy sinh nhu cầu phải thành lập một bộ máy chuyên theo dõi quảng cáo không có giấy phép. Đây là điều gây tốn kém không cần thiết và thực tế là không làm nổi. Thứ hai, liệu Bộ VH- TT có đảm bảo được rằng, sau khi ký xác nhận cho phép đăng tải quảng cáo trên Internet, nội dung đó không bị sai lệch. Chẳng hạn có một hacker tấn công
Web site nào đó và làm sai lệch thông tin quảng cáo trên Internet thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm.
Trong bản dự thảo đã nêu rõ ràng: Sản phẩm quảng cáo thực hiện trên Internet do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được phép cung cấp dịch vụ thông tin Internet chịu trách nhiệm. Nhà quản lý chỉ nên dừng lại ở quy định này là đủ. Bởi vì các nhà quản lý Web site khi xin phép đưa thông tin lên mạng đã phải cam kết chịu trách nhiệm với những gì đăng tải trên trang Web của họ. Từ trước đến nay khi đăng tải các quảng cáo trên mạng, các nhà cung cấp dịch vụ đều không chấp nhận những thông tin không thể kiểm soát bên ngoài Việt Nam và luôn tuân thủ theo pháp lệnh Quảng cáo. Bên cạnh đó, mạng Internet cũng chỉ là một phương tiện quảng cáo, trong khi các quảng cáo trên các báo in không cần phải xin phép thì tại sao quảng cáo trên Web site phải xin phép.
Yêu cầu nội dung quảng cáo phải có ý kiến của Bộ VH- TT không chỉ gây khó khăn đối với các công ty quản lý Web site mà ngay cả các đơn vị muốn quảng cáo trên Internet cũng thấy rằng điều này không thực tế. Việc quy định như vậy sẽ gây ra tâm lý ngần ngại thực hiện việc quảng cáo trên mạng của các doanh nghiệp, đặc biệt là các thương nhân nước ngoài muốn quảng cáo trên các Web site Việt Nam khi mà phải xin phép cho từng quảng cáo được đăng tải trên mạng. Trên thế giới hiện nay chưa hề có quốc gia nào đưa ra quy định kiểm soát quảng cáo như vậy. Thông tin đưa ra trên Web site hoàn toàn do các công ty phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Bên cạnh đó nó cũng sẽ là rào cản làm cho TMĐT Việt Nam thụt lùi. Vì trong khi chúng ta đang khuyến khích các doanh nghiệp giới thiệu Web site, quảng bá sản phẩm của họ
trên Internet thì nay lại làm công việc đó chậm lại với một yêu cầu hết sức bất cập là quảng cáo trên Internet phải chờ giấy xin phép đến 10 ngày. Chẳng hạn, nếu một doanh nghiệp muốn quảng cáo trên Internet với cùng một nội dung, khi quảng cáo trên báo Lao Động điện tử họ không phải xin ý kiến, nhưng nếu quảng cáo trên trang tin của công ty Netnam thì họ phải xin phép. Hay một tin quảng cáo rao vặt chẳng hạn , có nhiều người chỉ cần đăng tải 1 ngày, thậm chí 1 giờ, nếu họ phải chờ 10 ngày rồi mới được quảng cáo thì thực sự quá muộn đối với một tờ báo giấy chứ chưa nói đến trang thông tin điện tử.
4.2. Vấn đề tính an toàn, bảo vệ số liệu và quyền riêng tư cá nhân
Hiện tại ở Việt Nam vẫn chưa hề có đạo luật nào điều chỉnh về việc xử lý dữ liệu và thông tin cá nhân, ngoại trừ một điều luật chung trong điều 34 Luật dân sự. Điều luật này nêu rõ việc thu thập, lưu giữ, sử dụng và tiết lộ thông tin cá nhân của một cá nhân phải được sự đồng ý của cá nhân đó, trừ phi cơ quan có thẩm quyền có quyết định khác theo quy định của pháp luật. Một nhà kinh doanh trên Internet (e- Vendor) không phải là một “cơ quan có thẩm quyền” (theo ý nghĩa được nêu trong điều 34, Luật Dân Sự), do đó nhà kinh doanh phải được sự đồng ý của các khách hàng mà nhà kinh doanh đó thu thập, lưu giữ và cung cấp các thông tin cá nhân của họ. Thay vào đó, các nhà kinh doanh có thể sẽ đưa ra khuyến cáo đối với các khách hàng trên Web site của mình rằng các thông tin về thẻ tín dụng và các thông tin mua hàng có thể sẽ được nhà kinh doanh sử dụng hoặc chỉ các thành viên của họ sử dụng cho mục đích thực hiện giao dịch.
Đối với vấn đề bí mật ngân hàng, các thông tin mua bán và thẻ tín dụng sẽ không được cung cấp cho bất cứ cá nhân hay tổ chức nào không có mối liên hệ hợp đồng với người sở hữu thẻ. Do đó, nhà kinh doanh trên mạng sẽ không thể tiếp cận được tài khoản tín dụng của người sử hữu thẻ tín dụng đó mà không được sự cho phép của người sử hữu thẻ hoặc của cơ quan có thẩm quyền. Không có các yêu cầu đặc biệt nào về nơi lưu trữ điện tử các thông tin đó. Tuy nhiên, nếu thông tin được lưu trữ trên một Web site có tên miền “.vn”, việc lưu trữ và phân phối thông tin sẽ chịu sự quản lý của Bộ Văn hoá- Thông tin. Việc bảo vệ thông tin cá nhân và bí mật cá nhân cũng được coi là quyền cá nhân (không thể chuyển nhượng) và được Luật dân sự bảo vệ. Khi quyền cá nhân bị xâm phạm, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm hoặc yêu cầu toà án ra lệnh cho bên vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, công khai xin lỗi và bồi thường những tổn thất vật chất và tinh thần mà bên bị vi phạm phái chịu.
4.3. Vấn đề tên miền
Theo trung tâm thông tin mạng Việt Nam (VNNIC), nước ta hiện có hơn 70.000 doanh nghiệp nhưng chỉ có 5% doang nghiệp đăng ký tên miền. Tên miền được coi như nhãn hiệu thương mại ở trên mạng của doanh nghiệp. Theo điều 6 của Quy chế quản lý và cấp giấy phép cung cấp thông tin, thiết lập trang tin điện tử trên Internet ngày 10/10/2002 của Bộ Văn hoá- Thông tin thì các cơ quan tổ chức muốn được cấp giấy phép thành lập trang Web hoặc đưa thông tin lên mạng phải có địa chỉ tên miền hợp lệ.
Cũng giống như các doanh nghiệp trên thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cũng đang phải đối mặt với các vấn đề rắc rối liên quan đến tên miền. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang đau đầu với tình trạng tên công ty hoặc sản phẩm của mình vốn có uy tín trên thị trường của mình đã bị kẻ khác chiếm mất. Do việc đăng ký tên miền theo nguyên tắc ai đăng ký trước thì người đó được quyền sở hữu nên các doanh nghiệp này