Quan Hệ Giữa Chi Phí Sản Xuất Và Giá Thành Sản Phẩm


Tuy nhiên, không phải tất cả các khoản chi phí chi ra đều là chi phí sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất. Trong doanh nghiệp có thể phát sinh nhiều loại chi phi trong các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh, nhng khi nhắc đến chi phí sản xuất là những hao phí, tổn thất xảy ra chỉ xét trong quá trình sản xuất, như những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, chứ không phải là những chi phí thời kỳ. Chi phí thời kỳ hay còn gọi là chi phí ngoài sản xuất là các khoản chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh không được tính vào giá thành sản phẩm. Các khoản chi phí này được bù đắp bởi doanh thu như các khoản chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.

Mỗi loại hình doanh nghiệp sản xuất, ngành lĩnh vực lại có cách thức tổ chức sản xuất riêng, phụ thuộc vào trình độ quản lý, dây chuyền công nghệ và cách thức gia tăng giá trị sản phẩm. Do đó, chi phí sản xuất cũng phát sinh tại nhiều địa điểm khác nhau, nhiều sản phẩm khác nhau.

1.1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất

Có nhiều cách phân loại chi phí theo các giác độ khác nhau, tiêu chí phụ thuộc vào mục đích của người sử dụng chi phí sản xuất vào các quyết định quản lý và lựa chọn phương án kinh doanh. Chi phí sản xuất có thể phân loại như sau:

Theo khoản mục chi phí trong giá thành:

- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: toàn bộ chi phí nguyên vật liệu chính, phụ, công cụ dụng cụ, vật liệu thay thế, nhiên liệu đã sử dụng vào sản xuất kinh doanh, không tính phần nhập lại kho và phế liệu thu hồi.

- Chi phí nhân công trực tiếp: toàn bộ chi phí lương, các khoản phụ cấp và các khoản trích theo lương của bộ phận lao động trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ (như bộ phận công nhân các phân xưởng, bộ phận lái xe, phụ xe trong doanh nghiệp kinh doanh vận tải…).

- Chi phí sản xuất chung: toàn bộ các khoản chi phí phát sinh ở bộ phận sản xuất như phân xưởng (trừ chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp).

Ưu điểm: Xác định chỉ tiêu tính giá thành nhanh chóng, chính xác

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Nhược điểm: Không tính được các yếu tố nào biến đổi và cố định tác động lên khoản mục chi phí chủ yếu.

Theo các yếu tố chi phí đầu vào:

Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Than Cọc Sáu - Vinacomin - 3


- Yếu tố nguyên vật liệu: bao gồm chi phí nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, công cụ dụng cụ, vật liệu thay thế sử dụng vào sản xuất kinh doanh.

- Yếu tố nhiên liệu: toàn bộ giá trị nhiên liệu cần thiết đã sử dụng trong sản xuất kinh doanh.

- Yếu tố tiền lương và các khoản phải trả người lao động: tiền lương và các khoản phụ cấp (thâm niên, vượt khung, độc hại, đắt đỏ, tiền ăn ca…) mang tính chất tiền lương phải trả người lao động.

- Yếu tố các khoản trích theo lương: trích các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và kinh phí công đoàn theo tỷ lệ quy định hiện hành trên tổng số lương phải trả người lao động.

- Yếu tố khấu hao tài sản cố định: tổng số khấu hao phải trích của các tài sản tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ.

- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh.

- Yếu tố chi phí bằng tiền khác: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh ở các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.

Ưu điểm: Việc phân loại này tạo điều kiện thuận lợi cho việc xem xét và quản lý chi phí theo nội dung ban đầu, có ý nghĩa trong việc quản lý và lập kế hoạch sản xuất vì nó cho biết kết cấu, tỷ trọng từng loại yếu tố chi phí sản xuất để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch về chi phí sản xuất, lập các kế hoạch về cung ứng vật tư, quỹ lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động…

Nhược điểm: Không phân tách được đối tượng chịu chi phí, địa điểm phát sinh chi phí.

Theo quan điểm của kế toán quản trị:

- Biến phí (còn gọi là chi phí biến đổi) là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với mức độ hoạt động, tức là chi phí sẽ thay đổi khi khối lượng sản phẩm thay đổi.

- Định phí (còn gọi là chi phí cố định) là những khoản chi phí không biến đổi khi mức độ hoạt động thay đổi, tức là dù có gia tăng hoặc không sản xuất thì chi phí cố định doanh nghiệp vẫn phải trả một khoản cố định (bất biến).


Ngoài ra, có những loại chi phí không phân biệt là biến phí hay định phí như tiền điện thoại, tiền thuê máy móc thiết bị…

Ưu điểm: Có ý nghĩa quan trọng trong việc phân tích điểm hòa vốn và đánh giá được tính hợp lý của các khoản chi phí, từ đó có các biện pháp nâng cao sản lượng, năng suất lao động nhằm tận dụng tối đa khả năng máy móc, trang thiết bị, hạ giá thành sản phẩm… để đạt các mục tiêu về lợi nhuận và việc ra quyết định kinh doanh.

Nhược điểm: việc phân tách chi phí biến phí và định phí gặp nhiều khó khăn đối với những loại chi phí hỗn hợp (là loại chi phí mà bản thân nó bao gồm cả yếu tố biến phí và định phí).

Như vậy, chi phí sản xuất có thể phân loại thành các nhóm khác nhau phụ thuộc vào mục đích, yêu cầu quản lý. Mỗi cách phân loại đều đáp ứng cho mục đích quản lý, kế toán, kiểm tra, kiểm soát chi phí phát sinh ở mỗi giác độ khác nhau. Việc phân loại đều có ý nghĩa, bổ sung cho nhau và giữ vai trò nhất định trong quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.

1.1.2. Giá thành sản phẩm

1.1.2.1. Khái niệm

Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống, lao động vật hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ.

Giá thành sản phẩm phản ánh kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, giá trị gia tăng thêm kết tinh trong thành phẩm, dịch vụ hoàn thành trong một quá trình hoặc một công đoạn. Xét về bản chất, giá thành là việc chuyển dịch vốn của doanh nghiệp vào quá trình sản phẩm để tạo ra sản phẩm hoàn thành. Chỉ tiêu giá thành là một chỉ tiêu các doanh nghiệp sản xuất đặc biệt quan tâm, vì hạ giá thành giúp doanh nghiệp gia tăng hiệu quả kinh doanh, đem lại nhiều lợi ích kinh tế.

1.1.2.2. Phân loại

Cũng như chi phí sản xuất, để đáp ứng yêu cầu quản lý, kế toán và kế hoạch giá thành, giá thành sản phẩm được xem xét dưới nhiều giác độ khác nhau, phân chia thành các loại khác nhau như sau:

Theo thời điểm tính và nguồn số liệu xác định giá thành:


- Giá thành kế hoạch: là chỉ tiêu được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và cac dự toán, định mức của kỳ kế hoạch.

- Giá thành thực tế: Giá thành thực tế là chi phí tiêu được xác định dựa trên cơ sở những chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm, thời điểm tính giá thành thực tế là lúc kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm.

- Giá thành định mức: được xác định trước khi sản xuất sản phẩm. Giá thành định mức được xác định trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch, được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi suốt kỳ kế hoạch nên luôn có sự biến đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp.

Theo phạm vi hạch toán chi phí:

- Giá thành trực tiếp: chỉ bao gồm biến phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng liên quan đến khối lượng công tác, lao vụ, dịch vụ, sản phẩm hoàn thành gồm có chi phí nguyên vật liệu và nhân công trực tiếp, các biến phí sản xuất chung.

- Giá thành toàn bộ: bao gồm toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh (cả định phí và biến phí).

1.1.3. Quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm

Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt của quá trình sản xuất bao gồm: mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau cơ sở để tính giá thành là những số liệu chi phí đã được tập hợp, còn cơ sở để tập hợp chi phí sản xuất là những khoản hao phí do doanh nghiệp bỏ ra. Một cách khái quát, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là biểu hiện bằng tiền của những hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà đơn vị phải bỏ ra trong quá trình sản xuất.

Chi phí sản xuất gắn với thời kỳ phát sinh chi phí còn giá thành sản phẩm gắn với khối lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ. Để tập hợp chi phí, kế toán cần căn cứ vào các loại chi phí phát sinh trong kỳ. Chi phí sản xuất bao gồm bao gồm chi phí trả trước trong kỳ cần phân bổ. Giá thành sản phẩm chỉ liên quan đến chi phí phải trả trong kỳ và chi phí trả trước phân bổ trong kỳ.

Chi phí sản xuất không chỉ liên quan đến khối lượng sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến khối lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ và khối lượng sản


phẩm hỏng. Còn giá thành sản phẩm thì không liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang.

Nếu xét về mặt lượng, quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thể hiện qua công thức:

Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành

CPSX dở dang

=

đầu kỳ

CPSX phát

+ -

sinh trong kỳ

CPSX dở dang cuối kỳ

Trường hợp các ngành sản xuất không có chi phí sản xuất dở dang hoặc chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau, tổng giá thành sản phẩm hoàn thành chính là chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.

1.2. Đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm

1.2.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất

Xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách hợp lý là tiền đề quan trọng đối với kế toán chi phí sản xuất. Việc xác định đối tượng phụ thuộc vào năng lực, trình độ của bộ máy kế toán và yêu cầu quản lý, loại hình sản xuất, đặc điểm sản phẩm…

Công tác xác định đối tượng kế toán chi phí có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tổ chức phân loại các loại chi phí, hạch toán kế toán, hệ thống sổ sách và bộ máy kế toán tham gia vào hoạt động kế toán chi phí được thống nhất liền mạch, góp phần cung cấp thông tin, giúp nhà quản trị kịp thời ra các quyết định sản xuất phù hợp. Xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí, những nơi phát sinh chi phí và chịu chi phí. Đối tượng kế toán chi phí sản xuất có thể là từng phân xưởng, tổ, đội hoặc toàn doanh nghiệp; từng đơn đặt hàng, hạng mục công trình; từng bộ phận, chi tiết; từng dây chuyền công nghệ hay toàn bộ cả dây chuyền.

Như vậy, xác định đối tượng kế toán chi phi sản xuất chính là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí.

1.2.2. Đối tượng tính giá thành sản phẩm

Xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính toán giá thành một đơn vị


sản phẩm. Đối tượng tính giá thành sản phẩm là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất, hay trên dây chuyền sản xuất tùy thuộc vào yêu cầu của chế độ hạch toán của doanh nghiệp áp dụng và quá trình tiêu thụ. Đối tượng tính giá thành sản phẩm phụ thuộc vào các đặc điểm sau:

- Quy trình công nghệ sản xuất: Nếu quy trình sản xuất đơn giản, đối tượng tính giá thành là sản phẩm cuối cùng, còn với quy trình sản xuất phức tạp, đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo.

- Loại hình sản xuất:

+ Loại hình sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ, đối tượng giá thành là sản phẩm của từng đơn đặt hàng.

+ Sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn, phụ thuộc vào quy trình công nghệ như đã nêu ở phần trên.

- Trình độ và yêu cầu quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh: Với trình độ cao, có thể xác định đối tượng giá thành chi tiết ở nhiều góc độ đáp ứng nhu cầu quản lý và thông tin. Với trình độ thấp, thì đối tượng giá thành có thể bị hạn chế hoặc thu hẹp. Với việc sử dụng các phần mềm kế toán trong ghi chép và tính giá thành, xác định đối tượng giá thành sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào trình độ của kế toán mà còn phụ thuộc vào chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để hỗ trợ quá trình làm kế toán (mua phần mềm, mô tả để đặt hàng viết phần mềm…).

Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hoặc hệ thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành của đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần túy kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng sản phẩm. Việc tính giá thành sản phẩm, phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp, đối tượng kế toán chi phí và giá thành sản phẩm mà có thể áp dụng các phương pháp như sau:

1.3. Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất

1.3.1. Chuẩn mực kế toán Việt Nam chi phối kế toán chi phí và giá thành sản phẩm

Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chịu sự chi phối trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01, số 02, số 03, số 04 như sau:


1.3.1.1. Chuẩn mực kế toán số 01 (VAS 01): chuẩn mực chung

Kế toán chi phí sản xuất cần tuân thủ 7 nguyên tắc kế toán sau:


- Nguyên tắc cơ sở dồn tích: "Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền. Báo cáo tài chính lập trên cơ sở dồn tích phản ảnh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và tương lai" [2].

Như vậy, mọi chi phí phát sinh của doanh nghiệp phải được ghi nhận tại thời điểm phát sinh, không căn cứ vào dòng tiền ra vào doanh nghiệp. Chỉ khi tuân thủ đúng nguyên tắc này, báo cáo tài chính mới phản ánh được tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

- Nguyên tắc giá gốc: Tài sản phải được ghi nhận theo giá gốc. Giá gốc của tài sản được tính theo số tiền hoặc khoản tương đương tiền đã trả, phải trả hoặc tính theo giá trị hợp lý của tài sản đó vào thời điểm tài sản được ghi nhận. Giá gốc của tài sản không được thay đổi trừ khi có quy định khác trong chuẩn mực kế toán cụ thể.

Mọi tài sản của doanh nghiệp khi xuất dùng (nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ) phải được ghi nhân theo giá gốc, khi phản ánh chúng theo giá thị trường tại thời điểm đưa tài sản đó vào quá trình sản xuất sản phẩm. Thực hiện nguyên tắc này để đảm bảo tính khách quan của số liệu kế toán, xác định được kết quả kinh doanh và đơn giản hơn trong việc ghi chép, thuận lợi cho công tác quản lý.

- Nguyên tắc phù hợp: Việc ghi nhân doanh thu và chi phí phải phù hợp với nhau. Khi ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhân một khoản chi phí tương ứng có liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó. Chi phí của các kỳ trước hoặc chi phí phải trả nhưng liên quan đến doanh thu của kỳ đó.

Do đó, tất cả cả các khoản chi phí cấu thành nên sản phẩm sẽ được tập hợp tạo ra giá vốn của sản phẩm đó và phải phù hợp với doanh thu của sản phẩm được cung cấp trong khoảng thời gian xác định.

- Nguyên tắc nhất quán: Các chính sách và phương pháp kế toán doanh nghiệp đã chọn phải được áp dụng thống nhất ít nhất trong một kỳ kế toán năm. Trường hợp có thay đổi chính sách và phương pháp kế toán đã chọn thì phải giải trình lý do và ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.

Tuân thủ nguyên tắc nhất quán, đảm bảo cho việc ghi nhận các yếu tố chi phí một cách hợp lý, không tạo nên các thay đổi bất thường trong giá thành sản phẩm


(khi thay đổi về phương pháp khấu hao TSCĐ, phương pháp xác định trị giá hàng xuất kho... trong kỳ kế toán).

- Nguyên tắc thận trọng: Thận trọng là việc xem xét cân nhắc, phán đoán cần thiết để lập các ước tính kế toán trong các điều kiện không chắc chắn. Nguyên tắc thận trọng đòi hỏi phải lập các khoản dự phòng nhưng không lập quá lớn, không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập, không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và chi phí, doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng chắc chắn về khả năng thu được lợi ích kinh tế, còn chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát sinh chi phí. Cần phải tuân thủ nguyên tắc này để hạn chế tối đa những bất lợi trong tương lai.

- Nguyên tắc trọng yếu: Thông tin được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu thông tin hoặc thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào độ lớn và tính chất của thông tin hoặc các sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin phải được xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính.

Đồng thời theo VAS 01, chi phí sản xuất, kinh doanh và chi phí khác được ghi nhận trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh khi các khoản chi phí này làm giảm bớt lợi ích kinh tế trong tương lai có liên quan đến việc giảm bớt tài sản hoặc tăng nợ phải trả và chi phí này phải xác định được một cách đáng tin cậy.

Các chi phí được ghi nhận trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phải tuân thủ nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí. Khi lợi ích kinh tế dự kiến trong nhiều kỳ kế toán có liên quan đến doanh thu và thu nhập khác được xác định một cách gián tiếp thì các chi phí liên quan được ghi nhận trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trên cơ sở phân bổ theo hệ thống hoặc theo tỷ lệ. Một khoản chi phí được ghi nhận ngay vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ khi chí phí đó không đem lại lợi ích kinh tế trong kỳ sau.

1.3.1.2. Chuẩn mực kế toán số 02 (VAS 02): Kế toán hàng tồn kho

Theo quy định của VAS 02 – Hàng tồn kho, giá gốc hàng tồn kho đã bán được ghi nhân là chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ phù hợp với doanh thu liên quan đến chúng. Giá vốn hàng bán được xác định theo một trong 4 phương pháp:

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 13/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí