mục nhỏ được tổng kết bên dưới với những thông tin được cho trong phụ lục 6.
> 866.620$ | |
Bảo trì và phân bổ vật liệu và dịch vụ | > 1.855.059$ |
Liên quan đến nhân sự | > 537.914$ |
Lệ phí, thuế và phí | > 78.549$ |
Tiền phạt và hình phạt | 0 |
Bảo hiểm trách nhiệm pháp lý về môi trường | > 10.760$ |
Dự phòng cho chi phí khắc phục và chi phí làm sạch tăng lên | Không biết |
Tổng chi phí | > 3.348.902$ |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Yếu Tố Sinh Thái Hiệu Quả Cho Máy Quét Của Fujitsu
- Thời Gian Hoàn Vốn Của Các Dự Án Đầu Tư Phát Triển Cp Ở Lithuania
- Kế Toán Quản Lý Môi Trường Tại Một Nhà Máy Giấy Mackenzie Ở Canada
- Tóm Tắt Các Chi Phí Của Sản Phẩm Không Xuất Đi
- Kiểm Tra, Giám Sát, Và Sử Dụng Cân Bằng Nguyên Vật Liệu.
- Kiến Nghị Đối Với Người Tiêu Dùng Và Các Tổ Chức Khác.
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
2.2. Loại 2: Ngăn ngừa và quản lý môi trường
Những hoạt động ngăn ngừa và quản lý bao gồm nhiều nhiệm vụ được thực hiện trong những hoạt động hằng ngày. Những hoạt động này bao gồm hoạt động kiểm tra của nhân viên vận hành, hoạt động bảo dưỡng hệ thống cảnh báo, đào tạo nhân viên vận hành, thay đổi quy trình, tuân thủ các hạng mục kiểm toán môi trường, theo sát những hành động do kế hoạch hành động đúng gây ra được triển khai sau tình huống bất ngờ hoặc bỏ lỡ, triển khai và thực hiện các quy trình hoạt động và giám sát phòng ngừa và phân tích. Bởi những hoạt động phòng ngừa đi liền với toàn bô quy trình hoạt động, nên khó để phân biệt hoàn toàn những chi phí này với những chi phí hoạt động khác. Con số 207.109$ từ báo cáo trong năm bao gồm một vài nhưng không phải tất cả những chi phí đó. Có thể dự tính tỷ lệ thời gian nhân viên vận hành (hoặc những bộ phận) tiêu tốn cho những hoạt động phòng ngừa (ví dụ: hoạt động kiểm tra và theo dõi), sau đó chia tỷ lệ thời gian này dựa trên chi phí bộ phận của thao tác.
Như đã đề cập ở phần trước, có thể hoạt động quản lý môi trường và phòng ngừa hình thành tập hợp những chi phí nhiều hơn được báo cáo ở đây. Con số về loại chi phí môi trường này được đưa trong tài khoản dưới đây.
Không khí và Khí hậu: hai chi phí bên ngoài được ghi nhận cho loại này: 141.617$ được tiêu dung cho nhà thầu cung cấp thiết bị lọc, thay đổi môi trường và thử nghiệm ăn mòn đối với nhà máy; 54.058$ được tiêu dung cho việc bảo dưỡng thiết bị điều hòa.
Rác thải: 36.186$ được tiêu dùng cho nhà thầu khi thuê thùng và chuyển tới bãi rác. Nhà thầu thứ hai nhận được 7198$ từ hoạt động thuê thùng và tiêu hủy rác đặc biệt (nguyên vật liệu nhiễm dầu).
Nước thải: xấp xỉ 12.000$ được sử dụng cho tư vấn bên ngoài nhằm hỗ trợ tối ưu hóa hoạt động xử lý nước thải. Tư vấn được hỗ trợ với dự án đặc biệt (thử nghiệm) liên quan đến việc bổ sung hóa chất (hypochlorite) cho hệ thống xử lý.
Đất và nước ngầm: 11.700$ dành cho phân tích nước ngầm. Bên cạnh đó, 6582$ được dùng cho việc đào 10 giếng nước ngầm mới. Chi phí lao động dành cho thiết bị thử nghiệm nước thải trong bốn ngày xấp xỉ 768$.
Chi phí được ghi nhận đối với hoạt động phòng ngừa và quản lý môi trường ước tính lên đến ít nhất 270.109$ tùy theo phân tích thống kê cho dưới đây (Xem phụ lục 6)
>195.675$ | |
Lãng phí | >43.384$ |
Nước thải | >12.000$ |
Đất và nước ngầm | >19.050$ |
Tổng | >270.109$ |
2.3. Loại 3: giá trị mua nguyên vật liệu của đầu ra không phải sản phẩm
Công ty thanh toán ba lần đối với chi phí không tạo ra sản phẩm, trong quá trình sản xuất, tại bãi rác. Đây là nhân tố chi phí môi trường quan trọng nhất trong Nhà máy giấy Mackenzie. Tùy vào chi phí nguyên liệu thô và nhân công, chi phí mua nguyên liệu của nguyên liệu bị loại bỏ có thể lên đến 40-90% trên tổng chi phí môi trường nếu chi phí nguyên liệu thấp so với tổng chi phí hoạt động, giống như với nhân công, nhân tố chi phí này không phải chi phí môi trường quan trọng nhất trong tất cả các công ty.
Tính toán giá trị mua nguyên liệu của đầu ra không phải sản phẩm cho thấy cả những thách thức trên thực tế và lý thuyết. Về lý thuyết, những vấn đề liên quan đến “hiệu quả” trong quy trình sản xuất là quan trọng. Ở cấp độ thực tế, xuất hiện những khó khăn trong việc thu thập thông tin được yêu cầu. Những phần tiếp theo cung cấp con số xấp xỉ liên quan đến giá trị mua nguyên liệu của đầu ra không phải sản phẩm.
2.3.1. Nguyên liệu thô
Nguyên liệu thô lẫn trong nước thải và thậm chí là trong chất thải bùn bao gồm
hầu hết chất sợi và một số ít những mảnh nhỏ, mảnh vụn hoặc vỏ cây. Hàng tấn nguyên liệu thô đã mất trong năm 2000 khi được đo hàng ngày trong cống nước thải ước tính vào khoảng 5219 tấn. Con số ước tính này chỉ có kể từ khi có một vài yếu tố không chắc chắn trong cách đo đạc.
Do việc chuyển những gỗ dăm sang bột gỗ thông qua quy trình bột gỗ hóa nhiệt cơ và sau đó tạo ra giấy in sử dụng loại giấy bột này, một tỷ lệ các dòng chảy nguyên vật liệu xuất hiện như dòng nước thải. Dòng nước thải này có thể được hình thành từ những hoạt động của đơn vị khác hoặc dọc theo quá trình và cũng có thể được tạo ra khi đảo ngược quy trình hoặc mất cân bằng. Dòng rác thải trong quy trình bao gồm sợi nguyên vật liệu thô đã trở nên không thể sử dụng được nữa (bột gỗ) và có thể bao gồm một tỷ lệ nhỏ những gỗ dăm. Hầu hết là bột gỗ và con số ước tính hàng tấn thông qua những mẫu được lấy ra từ nhà máy vào khoảng 5219 tấn mỗi năm. Do đó rất đúng để cho rằng 5219 tấn tương ứng với khối lượng gỗ dăm ban đầu (và do đó, có thể được tính như chi phí nguyên liệu đầu ra không phải sản phẩm). Dòng nguyên liệu này sẽ chảy trực tiếp vào nhà máy xử lý nước thải tại nơi tạo ra rác thải rắn phụ (thông qua tác động sinh học). Toàn bộ nguyên liệu đã thải ra bãi rác công trường.
Rác thải sinh ra trong quy trình sản xuất sẵn có, cụ thể là quy trình bột giấy hóa nhiệt cơ học bao gồm cả quy trình cơ học và hóa học. Trong giai đoạn cơ học, một số khối lượng mảnh vụn ban đầu bị mất khi gỗ dăm cứng (cây) được chuyển thành thành phần. Trong tỷ lệ hóa học, một số thành phần của cây gỗ ban đầu (xúc gỗ hoặc gỗ dăm) bị hòa tan bằng việc bổ sung hóa chất. Những thành phần này được hòa tan trong giai đoạn nước thải nhà máy ở dạng lỏng và sau đó được tái chuyển sang khối rác thải rắn sinh học trong nhà máy xử lý thứ cấp. Những chất thải này tạo thành khối đầu ra không phải sản phẩm. Nếu việc chuyển đổi gỗ dăm sang giấy là ý tưởng thì nó sẽ tạo ra một tấn giấy đối với mỗi tấn đầu ra dạng khối. Tuy nhiên, trên thực tế, việc chuyển đổi không phải là ý tưởng hay và hiệu suất của quy trình tạo bột giấy là chức năng thiết kế quy trình (trang thiết bị nào ở đâu và cách vận hành). Ví dụ: nhà máy Kraft có hiệu suất khác hơn so với nhà máy hóa nhiệt cơ, và nhà máy bột giấy hóa nhiệt cơ có hiệu suất khác hơn loại quy trình tạo bột giấy khác. Giới hạn quy trình và mục tiêu chất lượng giấy cũng có thể góp phần vào việc không thể sử dụng mỗi nguyên liệu riêng. Điều này
có nghĩa là quy trình sản xuất tạo ra nguyên liệu không thể sử dụng.
Nhân viên vận hành kiểm tra hiệu suất sử dụng những phương pháp hiệu quả và tỷ lệ để xem xét. Hiệu suất là giá trị bột giấy được tạo ra trên mỗi đơn vị đấu gỗ, theo tính toán thì nhỏ hơn một. Tại Nhà máy giấy Mackenzie, sản lượng tạo bột giấy vào khoảng 88%. Tỷ lệ này nhìn chung vẫn bị nhân viên kế toán thấy được là tỷ lệ ngược của hiệu suất. Trong sổ chi phí nhà máy, hiệu suất lý thuyết (tính toán) được biết đến như gỗ dăm được tiêu dùng mỗi tấn sản xuất bột giấy hóa nhiệt cơ tại 2.14 so với ngân sách đầu tư. Biết được trọng lượng của những gỗ dăm được đưa vào và sử dụng trang thiết bị đo bao nhiêu bột giấy thất thoát khỏi những chiếc máy xéo giấy. Con số ở mục
2.14 gỗ dăm được tiêu dùng mỗi tấn giấy hóa nhiệt cơ học ở đây cho thấy số liệu tổng trong năm là chính xác. Như trong hồ sơ ghi, tại nhà máy giấy, cần 2.14 tấn gỗ dăm để tạo ra một tấn bột giấy hóa nhiệt cơ học (hoặc hiệu suất xấp xỉ 88%). 3% dao động từ những con số ước tính trong số liệu ngân sách.
Cần thiết để biết bao nhiêu bột giấy có thể được tạo ra với mỗi tấn gỗ dăm. Ví dụ: nếu tỷ số này tăng lên, nhân viên sản xuất sẽ cân nhắc xem có sự mất cân bằng quy trình hoặc một vài vấn đề khác có thể đang tạo ra dòng rác thải cao hơn. Nếu họ có tỷ số dự kiến là ở mục 2.11 tấn gỗ dăm trên mỗi tấn bột giấy hóa nhiệt cơ học nhưng đang vận hành tại 2.14, điều đó có nghĩa là có sự tổn thất cao hơn đối với vật liệu tốt tiềm năng vì một lý do nào đó. Kết quả thực tế là nhà máy tạo ra ít bột gỗ tốt và có lẽ là nhiều rác thải hơn dự kiến. Phương sai 3% từ ngân sách là nguyên nhân sự sai lệch.
Rõ ràng rằng do quy trình và những hạn chế hoạt động, việc chuyển đổi gỗ dăm sang bột giấy không phải là 100%. Đó cũng là một chức năng của sản phẩm mà Nhà máy giấy Mackenzie đang tạo ra và chất lượng cần thiết. Trong khi đó hoàn toàn công bằng khi nói rằng 5219 tấn gỗ dăm mỗi năm được coi như đầu ra không phải sản phẩm. EMA tập trung vào tỷ lệ đầu vào trên đầu ra 1:1 và quan điểm có liên quan rằng toàn bộ đầu ra bỏ đi như sản phẩm hoặc rác thải. Theo phương pháp EMA, chi phí thực tế của 115$/tấn trong 5219 tấn rác phải được cân nhắc đến (600.185$), cộng thêm chi phí hoạt động bị bỏ đi có liên quan đến việc chuyển đổi ra không phải sản phẩm (Chi phí Loại 4), cộng chi phí xử lý và tiêu hủy rác tiếp theo (Chi phí Loại 1). (Trong năm 2001, những ghi chép thực tế cho thấy chi phí đã chi cho những gỗ dăm trong năm 2001
chính xác là 113.37$/tấn (chuyển và xử lý 110$/ tấn 3.37). Những con số trước đó trong báo cáo tài chính trong năm là 115$/ tấn).
2.3.2. Đóng gói
Cuộn giấy in báo cuối được cuộn trong tờ giấy nâu. Một vài tờ giấy nâu cũng trở thành rác phế liệu và đổ tại bãi rác. Lõi bằng bìa cứng của những cuộn giấy báo cũng trở thành phế liệu và được mang ra bãi rác. Nhà máy nghiên cứu tính khả thi trong hoạt động kiểm tra rác thải để ước tính số lượng bị thất thoát. Phạm vi và chi phí hai dòng rác thải vẫn chưa được tìm ra vào thời điểm xem xét. Tuy nhiên, không có một kế hoạch tái chế cụ thể nào đối với những dòng rác thải này.
2.3.3. Nguyên liệu phụ
Kết quả nguyên liệu phụ và nguyên liệu hoạt động sau đây chỉ là con số tương đối. Nguyên liệu phụ bao gồm toàn bộ những hóa chất được sử dụng trong quá trình sản xuất giấy. Những nguyên liệu này bao gồm những hóa chất cần thiết để có được kết quả chất lượng mong muốn. Chúng bao gồm những hóa chất làm trắng (peroxyt, sodium hydrosulphite, sodium silicate, DPTA, caustic soda, sulphur dioxide), chất mầu, chất đông tụ, bột giấy flocculant, và bột giấy hóa nhiệt cơ (caustic soda và sulphur dioxide). Một vài trong số những hóa chất này được dùng trong sản phẩm (chất mầu, chất đông tụ và bột giấy flocculant) và những hóa chất khác (như hóa chất hóa chất tẩy trắng và hóa chất bột giấy hóa nhiệt cơ học) xuất hiện nhiều hơn trong các dòng rác thải (bởi chúng đóng vai trò hào tan một số thành phần nhất định trong gỗ dăm). Nguyên liệu như chất mầu, bột giấy flocculant và chất đông tụ chỉ là những hóa chất được bỏ phía ngoài và xuất hiện trong dòng rác thải. Do đó, hóa chất như peroxide và caustic soda sẽ xuất hiện trong nước thải.
2.3.4. Vật liệu hoạt động
Vật liệu hoạt động là những vật liệu không có trong sản phẩm (hoặc không tạo nên nét đặc trưng nào của sản phẩm chẳng hạn như độ trắng được tạo ra do chất tẩy trắng). Vật liệu hoạt động bao gồm những dịch vụ có liên quan đến trang thiết bị của Nhà máy giấy Mackenzie và bao gồm cả hóa chất xử lý nước, bộ xử lý phớt, chất slimicide (kiểm soát vi khuẩn trong hệ thống nước máy xeo giấy), hóa chất kiểm soát góc nghiêng và thiết bị xử lý nước. Vật liệu hoạt động cũng bao gồm vỏ bọc, đó là keo
dính và mực, vỏ hộp và lõi giấy, những vật phẩm có trong khu vực đóng gói.
Để đo lại, vấn đề khó khăn đối với vật liệu hoạt động và nguyên liệu phụ là hóa chất nào trộn vào loại nào và phần đó trở thành một phần trong dòng rác thải hơn là dòng sản phẩm. Thông tin trong phần này và về nguyên liệu phụ chỉ là con số tương đối.
2.3.5. Năng lượng
Năng lượng được sử dụng trong quy trình chế tạo giấy được chia thành hai loại: loại hơi và năng lượng điện. Hơi là sản phẩm phụ từ nhà máy cấp hơi tại nơi sản xuất. Nhà máy này cũng sản xuất năng lượng điện cung cấp cho nhà máy giấy (93.395 kWh). Năng lượng được tạo ra trong nhà máy giấy từ hoạt động đốt cháy gỗ phế thải. Một vài chất khí tự nhiên bị thiêu đốt trong nhà máy cấp hơi (nhiên liệu dự trữ). Lượng điện còn lại được mua (495.610 kWh).
Tổng chi phí điện năng là 15.998.000$ trong năm 2000. Chi phí gồm có chi phí biến đổi và chi phí cố định. Bổ sung vào chi phí điện năng, chi phí tiêu dùng gas là 4.340.000$ bao gồm gần 20% lượng tiêu thụ năng lượng của nhà máy cấp hơi. Chi phí gas cũng bao gồm phần biến đổi (dựa trên tiêu dùng) và phần cố định (chi phí chuyển và trên hợp đồng bao gồm cả chi phí khấu hao đường ống). Thông thường, nhà máy cấp nhiệt hiệu quả so với điểm dừng năng lượng: nhiều nhiệt thải tạo ra hơi có thể được tái sử dụng trong quá trình. Nhân tố hiệu suất năng lượng xấp xỉ nhìn chung được sử dụng trong nhà máy cấp nhiệt là 30-34%. Năng lượng ra khỏi nhà máy dưới dạng sản phẩm hoặc rác thải ở đầu vào quy trình sản xuất (ví dụ: chất làm ô nhiễm không khí và nhiệt hao phí). Do đó, chi phí năng lượng cho loại rác thải này cần được cân nhắc. Tóm tắt chi phí năng lượng từ báo cáo trong năm của Nhà máy giấy Mackenzie được đưa trong Bảng 2.6.
Bảng 2.6: Tóm tắt các chi phí năng lượng
Chi phí biến đổi/tấn | Chi phí cố định/ tấn | Tổng chi phí/tấn | |
Điện năng | 68.60 | 20.21 | 88.81 |
Gas | 20.05 | 4.06 | 24.10 |
Hog fuel | 4.04 |
Hog fuel là một thuật ngữ để chỉ gỗ phế liệu.
(Nguồn: Báo cáo chi phí năng lượng trong năm 2000 của nhà máy giấy Mackenzie)
Vào cuối quy trình sản xuất, nếu đầu ra là rác thải (Y1) chứ không phải là sản phẩm có thể đem bán, có thể cho rằng giá trị mua vật liệu năng lượng đối với đầu ra không phải sản phẩm này có thể được tính toán như sau:
Y1 tấn *88.81$/tấn = $1 | |
Gas | Y1 tấn *24.10$/tấn = $2 |
Chất thải từ gỗ ( hog fuel ) | Y1 tấn *4.04 $/ tấn = $3 |
Tổng | = $4 |
Hog fuel là một thuật ngữ để chỉ gỗ phế liệu.
5.219 tấn gỗ phế liệu không được sử dụng ở cuối quy trình. Lượng gỗ này thường được dùng ở giai đoạn trước đó.
2.3.6. Nước
Nhà máy dự kiến 5.651.404 m3 nước từ giếng nước ngầm sâu dưới lòng đất. Chi phí hút nước ngầm không được ghi lại cụ thể trong phần thông tin công khai. Bổ sung vào chi phí này, nước được xử lý bằng hóa chất nhằm đảm bảo chất lượng cho quy trình sản xuất. Chi phí xử lý có thể được tính toán dựa trên chi phí hóa chất. Thông tin trong báo cáo cho biết 4.720.790 m3 nước đã được xử lý được thải ra Hồ Williston gần đó. Sử dụng đầu ra nước ngầm như thông thường cũng như đầu ra nước
đã được xử lý tự do trong hồ địa phương cho thấy hai khu vực mà chi phí thuế tài nguyên, phí, hoặc phí cấp phép có thể phát sinh trong tương lai. Vậy giá mua nguyên liệu nước như đầu ra không phải sản phẩm sẽ được tính như thế nào? Sử dụng phép xấp xỉ, chi phí xử lý có thể được đưa ra tương ứng với chi phí bột hóa nhiệt cơ học và hoạt động của bộ phận bột giấy hóa nhiệt cơ học. Chi phí hóa chất dự kiến là 2.23$/tấn. Theo cách này, chi phí nước đang được xử lý trong sản xuất 180.146 tấn giấy in là 415.106$. Khối lượng nước được thải vào trong hồ Williston là 83.5% tổng số nước được thải ra trên mặt đất. Sử dụng tỷ lệ này đối với chi phí xử lý nước cho biết giá trị mua nguyên liệu đầu ra không phải là sản phẩm trị giá 346.614$. Mặc dù việc đánh giá tính bền vững của xu hướng tiêu dùng nước hiện tại hoặc những tác động những hành động hủy bỏ của nhà máy giấy trên tầng ngậm nước không được trực tiếp chỉ ra, hiện tại Nhà máy giấy Mackenzie có kế hoạch tại chỗ nhằm giảm thiểu việc tiêu dùng nước và những thua lỗ. 17% nước bị mất do bay hơi, tuy nhiên, tỷ lệ nước sử dụng trong chuyển đổi gỗ dăm sang sản phẩm giấy chưa được công bố.
Tiêu thụ nước trong năm tiến hành nghiên cứu là 28.8 m3/tấn giấy.Nhà máy giấy hiện đại có thể được thiết kế theo mức độ sử dụng nước trong 5-20 m3 mỗi tấn giấy (con số được Abitibi-Consolidated Inc. sử dụng). Nỗ lực của BC Hydro (Nhà cung cấp điện của tỉnh thông qua con đập lớn) nhằm tăng mức dự trữ nước và năng lượng có ảnh hưởng lớn. Lớp tuyết phủ và lượng mua giảm trong khu vực là một mối quan tâm đối với tất cả người dùng nước.
Chất lượng nước thay đổi đến nỗi mà một số bộ phận trong nhà máy không được đến gần khu nước uống. Nước đóng chai trị giá 9.493$ được cấp cho người lao động trong hơn một nửa năm 2000. Chi phí này không được đề cập đến trong phân tích chi tiết.
2.3.7. Rác thải khác
Không nhận ra bất kỳ chất thải nào khác.
2.3.8. Tóm tắt giá trị mua nguyên liệu chi phí đầu ra không phải sản
phẩm.
Công tác này đòi hỏi ước tính tổng giá trị loại chi phí này. Tạm thời ước tính sơ bộ chi phí ít nhất vào khoảng 946.795$ tùy theo sự phân tích phí tổn sau đây (Xem phụ lục 6):
>600.185$ | |
Bao bì | ( không có) |
Phụ liệu | (không có) |
Phân bổ vật liệu | (không có) |
Điện | (không có) |
Nước | >346.614$ |
Chất thải khác | (không có) |
Tổng | >946.799$ |
2.4. Loại 4: chi phí xử lý đầu ra không phải sản phẩm
Phần trên xem xét giá trị mua nguyên liệu đầu ra không phải sản phẩm. Phần này bổ sung thêm chi phí xử lý. Chi phí xử lý liên quan đến chi phí nguồn nhân lực (lao động và quản lý). Xem xét ba loại chi phí này. Sản phẩm có thể bán ở giai đoạn cuối của quá trình sản xuất; chi phí thứ hai vào khoảng 5.219 tấn chất thải bùn; và