Hoạt động gia công xuất khẩu và ý nghĩa của nó tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam - 11

thời trang, cửa hàng giới thiệu sản phẩm... đưa thương hiệu đến với người tiêu dùng. Quảng cáo và tuyên truyền trong truyền tin và xúc tiến hỗn hợp phải hướng đồng thời tới ba mục tiêu là: thông tin, thuyết phục và gợi nhớ. Tư tưởng chủ đạo của các thông tin đưa ra phải gây điều gì của sản phẩm tới khách hàng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải quảng cáo uy tín của doanh nghiệp với các sản phẩm đi kèm. Tùy vào điều kiện, doanh nghiệp phải mở rộng thương hiệu bằng cách sử dụng thương hiệu đã thành danh của sản phẩm này cho một loại sản phẩm khác có chung kỹ năng, hoặc tạo ra một sản phẩm mới bổ sung cho sản phẩm đã có để làm tăng sự hài lòng của khách hàng mục tiêu đối với sản phẩm đó. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải tự nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Phải xác định được rằng mình là chủ thể trong các quan hệ về sở hữu trí tuệ. Các nhãn hiệu, kiểu dáng là những tài sản của doanh nghiệp. Do vậy việc đăng ký sở hữu công nghiệp, sở hữu nhãn hiệu hàng hóa nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp tại các thị trường mà họ có chiến lược đầu tư là vô cùng cần thiết.

3. Giải pháp cho đào tạo, thu hút nguồn nhân lực

Con người luôn là yếu tố then chốt cho sự thành hay bại của doanh nghiệp, nhất là đối với những doanh nghiệp đòi hỏi nhiều chất xám trí tuệ như GCPM thì vấn đề con người càng trở nên quan trọng. Nhà nước cần phải mở rộng quy mô đào tạo tuyển sinh khối các ngành công nghệ thông tin cho các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp; nâng cao chất lượng đào tạo công nghệ thông tin, kỹ năng quản lý trong các khoa công nghệ thông tin của các trường đại học, cao đẳng và gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sản xuất công nghiệp. CNTT là ngành học đòi hỏi cập nhật, hiện đại hoá chương trình đào tạo công nghệ thông tin theo chuẩn quốc tế; tăng cường chuyển giao các chương trình đào tạo công nghệ thông tin từ các nước tiên tiến một cách thường xuyên. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư xây dựng các cơ sở đào tạo về công nghệ thông tin; đẩy mạnh việc thành lập các trường đại học công nghệ thông tin tư thục chất lượng cao; thu hút và tạo điều kiện thuận lợi để các trường đại học quốc tế mở cơ sở đào tạo công nghệ thông tin tại Việt Nam. Về nguồn lao động trong ngành dệt may và da giày, chúng ta chủ trương tăng cường đào tạo cán bộ kỹ thuật các ngành thiết kế (bao gồm cả

74

thiết kế mẫu mốt, thời trang, kiểu dáng công nghiệp), chế tạo máy, luyện kim, điều khiển tự động, điện tử tin học để làm chủ các công nghệ được chuyển giao, nghiên cứu thiết kế tạo ra công nghệ nguồn và kiểu dáng sản phẩm riêng của Việt Nam.

Các cơ sở đào tạo được thành lập của các nhóm ngành trên phải thay đổi quan điểm bằng việc thực sự coi doanh nghiệp là khách hàng. Giáo dục đào tạo phải đi từ bề rộng đi vào chiều sâu. Ngoài chuyên môn, các yêu cầu về sự tự tin, tính năng động, thái độ làm việc, năng lực giao tiếp, sự hợp tác và khả năng làm việc theo nhóm cần phải được chú trọng nhất là yêu cầu về khả năng thích ứng với công việc trong giai đoạn ứng dụng khoa học công nghệ diễn ra nhanh như hiện nay. Vì vậy, cần phải gắn kết được giữa chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, xây dựng chương trình và khối lượng đào tạo phù hợp. Đây chính là điểm gặp nhau giữa “cung” và “cầu” chất lượng cao, nếu gắn kết được sẽ tạo ra hiệu quả cho xã hội và doanh nghiệp. Trong giai đoạn hợp tác quốc tế trở nên phổ biến như hiện nay, chúng ta cần thu hút sự hỗ trợ của Chính phủ các nước phát triển như Nhật Bản, EU... để đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp FDI tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực. Ngoài ra cần tạo điều kiện đầu tư trang thiết bị cho các cơ sở nghiên cứu, chủ động đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên ngành, cũng như hợp tác nghiên cứu với các đối tác nước ngoài trong một số chương trình đào tạo nguồn nhân lực để phát triển công nghiệp hỗ trợ.

Để tránh được tình trạng lao động bỏ việc như vẫn thường thấy trong thời gian qua các doanh nghiệp cần có chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, thời gian làm việc, trợ cấp cho người lao động hợp lý. Mức lương thực tế hiện nay trong các ngành dệt may, da giày và phần mềm của Việt Nam vẫn còn ở mức thấp, chưa thể đảm bảo cho người lao động có một cuộc sống đầy đủ. Mức lương được đề xuất cho lao động là 4-4,5 triệu VND/tháng/người thay vì mức 1,5-3 triệu hiện nay trong ngành dệt may, da giày; 15.000 USD/năm/người trong ngành phần mềm. Lương của công nhân được chủ doanh nghiệp chi trả nên nhiều người lao động muốn có tiền phải tham gia làm thêm giờ, có những người lao động phải làm việc 10 tiếng/ngày. Các doanh nghiệp cần phải điều chỉnh lại mức lương và thời gian làm việc 8

tiếng/ngày cho người lao động. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp vẫn duy trì quan điểm quản lý nhân sự thuần túy. Điều này cũng là một hạn chế cho doanh nghiệp khi đưa ra các nhu cầu cho chính mình về nguồn nhân lực. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải chấp nhận và sẵn sàng đương đầu với một thực tế đó là sự chuyển dịch giữa các doanh nghiệp trong nội bộ ngành hoặc thậm chí khác ngành xuất phát từ nhu cầu thực tế của chính người lao động. Thêm vào đó, các doanh nghiệp cần chủ động hơn trong việc nâng cao chất lượng tay nghề cho người lao động thông qua việc tạo điều kiện đầu tư trang thiết bị cho các cơ sở nghiên cứu, chủ động đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên ngành, cũng như hợp tác nghiên cứu với các đối tác nước ngoài trong một số chương trình đào tạo nguồn nhân lực để phát triển. Doanh nghiệp cần tăng cường sự hỗ trợ đối với các cơ sở đào tạo thông qua việc xây dựng thông tin về nhu cầu, tuyển dụng, hỗ trợ thực tập, hỗ trợ thực tập, môi trường thực hành… Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần đưa ra những yêu cầu cụ thể về đào tạo đối với các cơ sở đào tạo theo những chương trình đã định sẵn.

4. Giải pháp tăng nguồn vốn đầu tư

Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước góp vốn tham gia đầu tư bằng những chính sách thu hút thích hợp. Nhà nước giữ vai trò điều phối, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán để tạo kênh huy động vốn (thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu và trái phiếu quốc tế). Nhà nước sẽ chủ động hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách cho hoạt động nghiên cứu, đào tạo và vốn đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực cho các Viện nghiên cứu và các cơ sở đào tạo cho ngành dệt may và da giày. Các dự án đầu tư xử lý môi trường của các doanh nghiệp trong ngành dệt may và da giày được vay vốn tín dụng của nhà nước, vốn ODA và vốn của quỹ môi trường. Nguồn vốn cho các hoạt động khuyến công, hỗ trợ phát triển khoa học - công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc đầu tư nghiên cứu và phát triển sản xuất hỗ trợ cũng cần được tạo điều kiện.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Các doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm các nguồn vốn để sản xuất mở rộng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, không nên chỉ trông chờ ỷ lại sự hỗ trợ từ phía nhà nước mà nên đa dạng nguồn vốn đầu tư, đồng thời đa sở hữu các nguồn

vốn đầu tư. Trước hết các doanh nghiệp cần huy động mọi nguồn lực tự có của doanh nghiệp; liên kết, liên doanh giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành liên quan để khai thác tối đa tiềm năng tài chính của mỗi doanh nghiệp và xây dựng mới các dự án đầu tư. Hiện nay, quy mô của các doanh nghiệp của chúng ta vẫn ở dạng vừa và nhỏ, các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự đủ năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế. Trong khi đó, vấn đề mà các doanh nghiệp còn gặp phải là thiếu sự liên kết chặt chẽ, hỗ trợ, bổ sung cho nhau vì vậy việc giúp đỡ lẫn nhau về vốn, kinh nghiệm trong sản xuất sẽ có tác dụng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể huy động từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước thông qua việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Khi thu hút được một lượng vốn đầu tư nhất định, các doanh nghiệp cũng nên cân nhắc danh mục đầu tư. Không nên đầu tư dàn trải vào sản xuất tất cả các mặt hàng mà nên chuyên môn hóa vào những lĩnh vực mình còn yếu kém hoặc phát triển chưa xứng với tiềm năng đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu đầu tư chiều sâu, đầu tư mở rộng và đầu tư mới nhằm đáp ứng tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành.

Hoạt động gia công xuất khẩu và ý nghĩa của nó tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam - 11

5. Giải pháp xây dựng chính sách hỗ trợ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu

Hiện nay, thông tin thị trường và các vấn đề liên quan đến hàng dệt may, da giày và phần mềm đã có nhiều song chưa thực sự đầy đủ và đáng tin cậy. Chúng ta vẫn chưa có hệ thống giám sát và thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường, xử lý thông tin nên không có thông tin để cung cấp kịp thời và đầy đủ cho người sản xuất và kinh doanh. Chúng ta còn thiếu một đội ngũ các chuyên gia giỏi chuyên phụ trách việc phân tích thông tin thu thập được để dự đoán tình hình thị trường nhằm đề ra các chính sách và chiến lược chủ động đối phó với những biến động của thị trường trong và ngoài nước.

Đối với nước ta, để thực hiện tốt công tác nghiên cứu và tổ chức hệ thống thông tin thị trường thường xuyên, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ công thương, Bộ kế hoạch và đầu tư và các cơ quan ban ngành có liên quan, đặc biệt là sự hợp tác của Hiệp hội dệt may, da giày và phền mềm Việt Nam. Để phát triển thị trường xuất khẩu, Nhà nước ta cần nâng cao vai trò trong việc mở rộng thị trường thông qua các hoạt động đàm phán ký kết các thỏa thuận song phương và đa

phương, định hướng hiệu quả cho các doanh nghiệp phát triển thị trường của mình. Ngoài ra, hệ thống các thương vụ và đại diện thương mại của nước ta đặt tại nước ngoài cũng là đầu mối quan trọng tổ chức thu thập thông tin và cung cấp thông tin một cách nhanh nhất, chính xác nhất cho các doanh nghiệp và người sản xuất. Thời gian mới đây vào cuối năm 2009, Chính phủ đã ủy thác Bộ Công Thương và các ngành có liên quan bố trí nguồn kinh phí xúc tiến thương mại giao cho Hiệp hội dệt may Việt Nam, Hiệp hội da giày và Hiệp hội phần mềm Việt Nam chủ động tổ chức xúc tiến xuất khẩu, tìm khách hàng và thị trường mới nhằm tăng đơn hàng.

Để mở rộng được thị trường xuất khẩu và tạo được mối quan hệ làm ăn với nhiều đối tác thì các doanh nghiệp không thể chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước hay chỉ ngồi chờ các đối tác tự tìm đến với mình. Theo số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, chỉ chưa đầy 10% số doanh nghiệp thường xuyên thăm dò thị trường nước ngoài, chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước; 42% số doanh nghiệp thỉnh thoảng mới có các cuộc đi thăm thị trường nước ngoài và 20% không một lần đặt chân lên thị trường nước ngoài. Khả năng thâm nhập thị trường nhỏ và tư nhân hầu như không có. Hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp nhìn chung chưa được tổ chức một cách khoa học mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người nghiên cứu là chính. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần chú trọng hơn đến hoạt động Marketing, quảng bá sản phẩm, hình ảnh và thương hiệu của doanh nghiệp mình cũng như có biện pháp thích hợp để nghiên cứu, nắm bắt thị trường mục tiêu.

Các doanh nghiệp xuất khẩu cần chủ động, tích cực tìm kiếm thị trường, nguồn hàng và vận dụng những kinh nghiệm đã được tổng kết qua nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu của mình. Trong điều kiện cho phép về vốn và quy mô của doanh nghiệp, cũng nên tổ chức các đoàn công tác đi tiếp thị cho sản phẩm của mình, tổ chức tham quan, khảo sát thị trường, tham gia hội thảo, hội chợ để học tập kinh nghiệm tiên tiến của nước ngoài, giới thiệu sản phẩm và tìm kiếm bạn hàng mới. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lớn thì nhiệm vụ của bộ phận Thông tin kinh tế và thị trường là hết sức cần thiết. Bộ phận này có nhiệm vụ thường xuyên thu thập thông tin về mặt hàng của mình qua nhiều kênh thông tin khác nhau, cả

trong và ngoài nước, qua các thông báo của nhiều tổ chức trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh thế giới. Sau khi được thu thập đầy đủ, thông tin sẽ được xử lý và cung cấp cho các đơn vị, cơ quan có liên quan sử dụng vào mục đích điều hành hoạt động sản xuất - kinh doanh và hoạch định kịp thời các chính sách phát triển phù hợp. Ngoài ra, bộ phận Thông tin kinh tế và thị trường của các doanh nghiệp còn phải dựa trên những thông tin đã thu thập và nghiên cứu để phối hợp với bộ phận quảng cáo - marketing để xác định được chiến lược marketing phù hợp với từng thị trường với những đối tượng người tiêu dùng khác nhau. Thông qua các hoạt động Marketing và quảng bá như thế, người tiêu dùng sẽ biết đến sản phẩm của doanh nghiệp nhiều hơn.

6. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiểu biết pháp luật trong buôn bán quốc tế

Để nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm và doanh nghiệp Việt Nam cũng như năng lực cạnh tranh quốc gia, vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. Nhà nước với tư cách là chủ thể điều tiết vĩ mô nền kinh tế, hướng tới tạo dựng cho các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao, môi trường kinh doanh trong nước thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô. Hệ thống luật pháp đầy đủ, chặt chẽ, hợp tình là việc hết sức cần thiết không những tạo tâm lý tin tưởng cho doanh nghiệp bên ngoài muốn bỏ vốn đầu tư mà còn khuyến khích bản thân doanh nghiệp phát huy được những lợi thế của mình trong sản xuất. Một số biện pháp để khắc phục tình trạng luật và các văn bản hướng dẫn thi hành luật không đồng bộ gây khó khăn cho doanh nghiệp:

- Nghiêm khắc xử lý đối với các trường hợp ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật chậm hơn so với quy định.

- Cần quy định thời gian bắt buộc phải ban hành các Thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành gần nhau trong một thời điểm nhất định. Điều này nhằm tạo ra sự đồng bộ trong các văn bản hướng dẫn và tạo điều kiện hướng dẫn cho các doanh nghiệp.

- Hạn chế tối đa các văn bản “lưu hành nội bộ” sau Thông tư.

- Cần có quy trình kiểm tra chặt chẽ về nội dung, văn phạm của các Thông tư hướng dẫn trước khi ban hành nhằm tránh những hướng dẫn lấp lửng để cán bộ

tùy ý vận dụng, gây khó dễ cho doanh nghiệp.

Trong thời gian tới, Nhà nước cần phải hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, các chế tài về quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực phần mềm, trong đó Nhà nước phải gương mẫu và thực thi nghiêm ngặt việc thực hiện bản quyền phần mềm. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc tổ chức các hội thảo, các khóa đào tạo, công tác tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực phần mềm cho tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân. Chính phủ cần tiếp tục duy trì và mở rộng các chính sách hỗ trợ về thuế cho các doanh nghiệp như giảm thuế với nguyên vật liệu đầu vào với các ngành dệt may, da giày; miễn thuế với nguyên vật liệu phục vụ hoạt động sản xuất phần mềm; miễn thuế xuất khẩu với sản phẩm phần mềm. Ngoài ra, cần tạo thủ tục thông thoáng hơn trong cơ chế đầu tư và các thủ tục hải quan.

Đối với bản thân các doanh nghiệp, họ phải là người chủ động nắm vững luật pháp không chỉ ở Việt Nam mà của nước bạn trong hoạt động thương mại quốc tế. Trong thời gian vừa qua, vấn đề về luật pháp chưa được chú trọng ở các doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng này, các doanh nghiệp cần có bộ phận tư vấn về luật pháp riêng đồng thời nâng cao ý thức hiểu biết đối với lĩnh vực này cho những phòng ban quan trọng. Trong những thương vụ quan trọng, các doanh nghiệp nên chủ động tìm tới luật sư để có thể bảo vệ được quyền lợi cho mình.

KẾT LUẬN


Với những tiềm năng sẵn có, Việt Nam là một quốc gia có ưu thế trong hoạt động gia công xuất khẩu. Minh chứng cho điều này là những kết quả khả quan trong kim ngạch xuất khẩu từ hàng gia công song xét trên nhiều phương diện, hoạt động gia công xuất khẩu ở nước ta vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Trong thời gian tới, các chuyên gia dự báo hàng gia công dệt may, da giày vẫn là những mặt hàng chủ đạo trong cơ cấu nền kinh tế; riêng phần mềm sẽ tăng trưởng mạnh hơn nữa để sớm vào nhóm mặt hàng có doanh thu hơn 1 tỷ USD. Tuy nhiên môi trường cạnh tranh toàn cầu đang ngày càng trở nên gay gắt hơn và việc tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu là một yêu cầu cấp thiết của các quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Do đó về lâu dài gia công xuất khẩu cần phải được thu hẹp phạm vi và thay vào đó là hoạt động xuất khẩu trực tiếp.

Mặc dù đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng hoạt động gia công xuất khẩu ở nước ta vẫn còn gặp nhiều tồn tại và thách thức chủ yếu như thiếu nguồn nguyên liệu đầu vào, giá trị gia tăng cho nền kinh tế còn thấp, chất lượng và số lượng lao động chưa cao, thiếu nguồn vốn đầu tư và các chính sách hỗ trợ thích hợp. Gia công xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn đang phụ thuộc quá nhiều vào nguồn lao động giá rẻ. Ưu thế này được dự báo là sẽ giảm đi trong những năm tiếp theo do những biến động khó lường của chính trị, giá đô la, giá xăng dầu… trên thế giới và nhất là do xu hướng của các nhà đầu tư hiện nay là coi trọng vấn đề năng suất lao động hơn giá cả lao động. Những khó khăn, thách thức này khiến cho gia công xuất khẩu của Việt Nam thua kém các quốc gia khác như Trung Quốc. Ấn Độ, Indonesia về chỗ đứng bền vững trên thị trường.

Từ những nhận định về tồn tại và thách thức trước mắt, trên cơ sở các quan điểm, định hướng xuất khẩu của nước ta trong các mặt hàng và dựa vào các

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2022