trọng trong việc giảm tỷ lệ gia công trong hàng dệt may, qua đó dần dần nâng cao được sức cạnh tranh của mặt hàng này. Định hướng sản phẩm hỗ trợ ngành dệt may là:
- Xây dựng và phát triển 3 trung tâm nguyên phụ liệu dệt may ở Hưng Yên, Long An, Bình Dương và Đà Nẵng.
- Phát triển các dự án sản xuất phụ tùng cơ khí dệt may.
- Hình thành ở phía Bắc 3 dự án sản xuất nồi, khuyên, thiết bị kéo sợi, dệt vải và ở miền Nam 4 dự án sản xuất khung go, dây go, lamen, suốt kéo dài, nồi khuyên.
- Xây dựng một số cơ sở sản xuất hoá chất trợ nhuộm tại 2 miền Bắc và Nam. Tại miền Trung sản xuất xơ Polyester.
2. Định hướng phát triển ngành da giày
2.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển
Dệt may và da giày đều là hai ngành kinh tế mũi nhọn, có nhiều điểm tương đồng vì là hai ngành liên quan đến lĩnh vực thời trang. Do đó, về cơ bản quan điểm phát triển ngành da giày gần như tương tự với ngành dệt may sẽ không trình bày lại ở mục này.
Mục tiêu tổng quát của ngành là: phát triển ngành da - giày thành một ngành kinh tế quan trọng phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Bên cạnh đó đảm bảo cho các doanh nghiệp da giầy phát triển bền vững với công nghệ hiện đại, hệ thống quản lý chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn ISO 9000, quản lý môi trường đáp ứng tiêu chuẩn ISO 14000.
Trong thời gian sắp tới ngành cần nỗ lực để thực hiện các mục tiêu cụ thể đã đề ra. Ngành da giày cần định hướng phát triển theo cả 2 hướng là làm hàng xuất khẩu và làm hàng nội địa thông qua làm chủ công nghệ và thiết kế để phát triển đủ chuỗi giá trị gia tăng. Để chuẩn bị cho mục tiêu nói trên, ngành da giày sẽ phải chuẩn bị cho kế hoạch đào tạo để tăng lao động trong ngành từ mức trên 610.000 người lên tới 820.000 người vào năm 2010 và đạt mục tiêu 1.189.000 người vào năm 2015.
Có thể bạn quan tâm!
- Kim Ngạch Xuất Khẩu Dệt May Của Việt Nam Theo Mặt Hàng
- Cơ Cấu Sản Phẩm Phần Mềm Của Việt Nam Năm 2009
- Mục Tiêu Phát Triển Ngành Dệt May Giai Đoạn 2010 - 2020
- Hoạt động gia công xuất khẩu và ý nghĩa của nó tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam - 11
- Hoạt động gia công xuất khẩu và ý nghĩa của nó tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
Cũng theo Lefaso, ngành da giày xuất khẩu của Việt Nam đang phấn đấu trở
thành một trung tâm có trình độ quốc tế về sản xuất giày dép giá trị cao tại khu vực. Năm 2010, ngành phấn đấu đạt mục tiêu tổng sản phẩm giày dép các loại sẽ là 761 triệu đôi, 107 triệu sản phẩm cặp túi ví; kim ngạch xuất khẩu da giày đạt khoảng 6,2 tỉ USD (giày dép 5,3 tỉ USD và cặp túi ví 0,89 tỉ USD), chiếm 10,29% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Với giai đoạn từ 2011-2020, nếu tăng trưởng GDP ổn định ở mức 7,5% thì tổng sản phẩm giày dép sẽ đạt 1.698 triệu đôi vào năm 2020, cặp túi ví các loại đạt 311 triệu cái, mang lại kim ngạch xuất khẩu da giày là 16,5 tỉ USD (giày dép 13,3 tỉ USD, cặp túi ví 3,2 tỉ USD), chiếm 9,68% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong đó, toàn ngành phấn đấu đạt tỷ lệ nội địa hóa là 60- 65% vào năm 2015; 75-80% vào năm 2020 và 80-85% vào năm 2025 và sử dụng lực lượng lao động tương ứng là 838.000 người; 1.003.000 người và 1.167.000 người. Chủ động hơn trong nguồn nguyên liệu thực sự là một mục tiêu lớn của ngành nên phải được chú ý đầu tư hơn nữa.
Ngành da giày đang trong quá trình hoàn thiện quy hoạ ch tổng thể phát triển đến năm 2020, tầm nhì n 2025. Theo giới kinh doanh da giày, căn cứ để định hướng cho giai đoạn tới là phải chỉ ra được những điểm yếu của ngành và đề ra phương hướng giải quyết. Hướng phát triển của da giày Việt Nam có thể theo 2 hướng, thứ nhất vẫn có thể giữ nguyên được vị thế xuất khẩu lớn thứ 2 của châu Á như hiện nay và thứ hai các doanh nghiệp trong nước cần đầu tư dần chiếm lĩnh 50 – 70% thị trường nội địa thông qua việc phát triển kênh phân phối và thương hiệu.
2.2 Phương hướng phát triển đối với ngành da giày
Ngành sẽ tiếp tục hướng về xuất khẩu với phương hướng chuyển mạnh từ gia công sang tự sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng, có giá trị thương phẩm cao. Chính phủ dành nhiều ưu tiên phát triển các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu, hóa chất, phụ tùng… phục vụ cho ngành nhằm tiết kiệm ngoại tệ, hạn chế sự phụ thuộc và tạo thế chủ động trong ngành sản xuất kinh doanh. Muốn làm được điều này cần phải chủ động khai thác đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu, phụ liệu trong nước, khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển. Ưu tiên cho xuất khẩu nhưng các doanh nghiệp không được lơ là thị trường nội địa, khai thác tối đa năng lực nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của tiêu dùng trong nước về các
67
mặt hàng thông dụng, trang phục, nhu cầu bảo hộ lao động và đáp ứng nhu cầu sản xuất khác trong nước. Ngoài ra ngành cần chú ý khâu thiết kế và triển khai mẫu mới các mặt hàng sản xuất, ứng dụng các công nghệ tiên tiến, đổi mới thiết bị và đồng bộ hóa tạo thế chủ động trong sản xuất chào hàng, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành cũng như mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Yêu cầu của công nghiệp phụ trợ là phải khai thác mọi nguồn lực và khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành, tăng cường khâu thiết kế mẫu, mốt, phát triển thị trường để giảm dần tỷ trọng hàng gia công. Trên cơ sở đó ngành phụ trợ phấn đấu: nâng tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước đạt 40% vào năm 2010 và 70-80% vào năm 2020; giảm dần mức nhập khẩu da sơ chế từ nay đến năm 2010, nâng công suất thuộc da đến năm 2010 tăng thêm 40 triệu sqft và sau năm 2015 tự chủ được khuôn mẫu và phụ tùng thay thế thông thường. Để làm được điều này, phương hướng đề ra cho ngành phụ trợ gồm có:
- Phối hợp với ngành dệt - may đẩy nhanh khả năng cung ứng các loại vải dệt để sản xuất giầy dép, đặc biệt là giầy dép vải xuất khẩu.
- Nhanh chóng sắp xếp và phát triển lĩnh vực thiết kế mẫu mã, sản xuất nguyên vật liệu da và giả da cung cấp cho sản xuất giầy dép xuất khẩu.
- Thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là từ khối EU vào sản xuất nguyên liệu mũ giày (giả da PVC, giả da PU...).
- Tập trung đầu tư bổ sung một số máy móc thiết bị ở khâu trau chuốt hoàn tất, nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý nhằm khai thác tốt hơn năng lực thuộc da hiện có, nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá các mặt hàng da thuộc.
3. Định hướng phát triển cho ngành gia công phần mềm
3.1 Quan điểm và mục tiêu phát triển
Công nghiệp phần mềm là ngành kinh tế tri thức, công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, tạo ra giá trị xuất khẩu cao, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhà nước đặc biệt khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư và phát triển ngành công nghiệp này trở thành một ngành kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế quốc dân.
Phát triển nguồn nhân lực về cả số lượng và chất lượng là điều kiện then chốt
cho sự thành công của công nghiệp phần mềm. Nhà nước tăng cường đầu tư và khuyến khích xã hội hoá công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin, đồng thời đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghiệp phần mềm, kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và sản xuất.
Cần chú trọng dịch vụ công nghệ thông tin, trước mắt là gia công phần mềm và dịch vụ cho nước ngoài, song song với việc tăng cường mở rộng thị trường trong nước, tập trung phát triển một số phần mềm trọng điểm, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, thay thế các sản phẩm phần mềm nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu ứng dụng công nghệ thông tin của Việt Nam.
Theo Quyết định 51/2007/QD-TTg, mục tiêu cơ bản của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam trong năm 2010 như sau:
- Tốc độ tăng trưởng trung bình đạt khoảng 35 - 40%/năm. Tổng doanh thu từ phần mềm và dịch vụ phần mềm đạt trên 800 triệu USD/năm, trong đó giá trị xuất khẩu đạt ít nhất 40%.
- Tổng số nhân lực phát triển phần mềm và dịch vụ phần mềm đạt khoảng
55.000 đến 60.000 người, với giá trị sản phẩm trung bình đạt 15.000 USD/người/năm.
- Xây dựng được trên 10 doanh nghiệp phần mềm có quy mô nhân lực trên 1.000 người và 200 doanh nghiệp phần mềm có quy mô nhân lực trên 100 người.
- Thuộc nhóm các nước dẫn đầu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực phần mềm và lọt vào danh sách 15 quốc gia cung cấp dịch vụ gia công phần mềm hấp dẫn nhất trên thế giới.
- Giảm tỷ lệ vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực phần mềm xuống bằng mức trung bình trong khu vực.
Hiện nay, trong cơ cấu doanh thu từ ngành CNTT, chỉ có 13% từ lĩnh vực phần mềm trong khi có tới 82% là của phần cứng. Xác định được phần mềm là ngành mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho CNTT, ngành CNTT đặt mục tiêu vào năm 2020 đạt kim ngạch 50 tỷ USD, trong đó 14 tỷ USD từ ngành phần cứng. Ngành phần mềm, nội dung số và viễn thông ước đạt tương ứng 5 tỷ USD, 5.2 tỷ USD và 25 tỷ USD. Như vậy, mặc dù tỷ lệ ngành phần mềm chỉ là 10% trong ngành CNTT
nhưng tương quan của các doanh thu phần mềm không còn lép vế so với phần cứng như trước đây.
3.2 Phương hướng phát triển ngành gia công phần mềm
Về sản phẩm: theo định hướng được đề ra tại Đại hội VINASA lần thứ 2, các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam đang tập trung đầu tư phát triển 3 lĩnh vực sản phẩm, đó là:
- Sản phẩm Game và nội dung số
- Phần mềm nhúng
- Giải pháp tin học hoá doanh nghiệp (ERP)
Về thị trường: ba thị trường lớn nhất của GCPM Việt Nam hiện nay vẫn là Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu trong khi tiềm năng của ngành này trên thế giới là rất lớn. Trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia để hợp tác, ký kết các hợp đồng GCPM như Hàn Quốc, Australia, Canada... Với các thị trường truyền thống trước đây, chúng ta đặc biệt lưu ý tới Nhật Bản vì đây là thị trường có rất nhiều tiềm năng hơn nữa Nhật Bản đang có rất nhiều công ty phần mềm đầu tư tại Việt Nam.
Về nguồn nhân lực: ngành công nghiệp CNTT và công nghiệp phần mềm Việt Nam đang đứng trước các cơ hội phát triển chưa từng có trong lịch sử. Tất nhiên để làm được những mục tiêu đề ra ở phần trước đó, yếu tố then chốt nhất đối với ngành GCPM phải là nguồn nhân lực. Chúng ta cần xây dựng chiến lược đột phá đào tạo, phát triển nguồn nhân lực CNTT theo chuẩn quốc tế, đặc biệt khuyến khích đầu tư thành lập các trường Đại học, Cao đẳng tư thục CNTT, quốc tế hoá giáo trình, chương trình đào tạo, thu hút đầu tư và hợp tác quốc tế trong đào tạo CNTT, thành lập cơ quan đặc trách của Chính phủ về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực CNTT Việt Nam.
II. Một số giải pháp nâng cao ý nghĩa của hoạt động gia công xuất khẩu
trong thời gian tới
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay được ví như “đại công trường gia công”, nguồn thu từ nhiều ngành kinh tế chiếm tỷ trọng cao các sản phẩm GCXK qua đó có thể thấy được tầm quan trọng của GCXK đối với nền kinh tế. Song việc nâng cao ý nghĩa của hoạt động GCXK không có nghĩa là chúng ta phải thúc đẩy, nhân rộng hoạt động này lên mà vấn đề cốt lõi ở đây là phải làm tốt các công đoạn gia công được giao trong chuỗi cung ứng sản phẩm, qua đó tích lũy học hỏi dần kinh nghiệm về khoa học kỹ thuật, về quản lý và nâng cao tay nghề cho người lao động để giúp Việt Nam dần dần thoát khỏi vị trí của một nước chuyên GCXK cho nước ngoài. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta cần từng bước giảm tỷ trọng hàng gia công song song với việc nâng cao, khuyến khích các sản phẩm với thương hiệu Việt Nam mang đi xâm nhập thị trường quốc tế. Để thực hiện tốt điều này cần có sự phối hợp giữa Nhà nước, các doanh nghiệp ngành phụ trợ, các doanh nghiệp sản xuất trong ngành. Giải pháp cho việc nâng cao ý nghĩa hoạt động GCXK trong nền kinh tế tập trung ở một số khía cạnh chính, đó là: phát triển vùng nguyên liệu, tạo giá trị thương hiệu riêng cho các mặt hàng, tăng nguồn vốn đầu tư vào các ngành, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ, có chính sách hỗ trợ thích hợp và nâng cao hiểu biết pháp luật trong buôn bán quốc tế. Tất nhiên, dưới góc độ của Nhà nước hoặc các doanh nghiệp sẽ có những hướng giải quyết khác nhau hoặc một số bổ sung hợp lý nhưng dẫu sao thì tất cả đều có chung một mục đích: nâng cao được ý nghĩa của hoạt động gia công xuất khẩu trong thời gian tới. Sau đây là một số nhóm giải pháp:
1. Giải pháp phát triển nguồn nguyên liệu
Chính phủ khuyến khích hình thành các khu, cụm công nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng, nguyên vật liệu phụ trợ cho các ngành công nghiệp. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia sản xuất sản phẩm hỗ trợ, cung ứng nguyên phụ liệu cho sản xuất hỗ trợ. Cụ thể, với dệt may: xây dựng và phát triển 4 trung tâm nguyên phụ liệu dệt may ở Hưng Yên, Long An, Bình Dương và Đà Nẵng; phát triển các dự án sản xuất phụ tùng cơ khí dệt may; hình thành ở phía Bắc 3 dự án sản xuất nồi, khuyên, thiết bị kéo sợi, dệt vải và ở miền Nam 4 dự án sản xuất khung go, dây go, lamen, suốt kéo dài, nồi khuyên, xây dựng một số cơ sở sản xuất hoá chất trợ
nhuộm tại 2 miền Bắc và Nam. Tại miền Trung sản xuất xơ Polyester. Với da giày: xây dựng trung tâm nguyên phụ liệu da giày ở Hà Tây, Bình Dương và Quảng Nam; đầu tư một số dự án sản xuất vải PVC, PU, sản xuất phụ tùng, khuôn mẫu cho ngành; trong năm 2010 phát triển 2-3 dự án sản xuất máy móc, phụ tùng, khuôn mẫu tại 3 miền để đáp ứng nhu cầu trong nước; di dời các doanh nghiệp và cơ sở thuộc da ô nhiễm ở các khu dân cư vào các khu, cụm công nghiệp, ứng dụng các công nghệ tiên tiến để giảm thiểu ô nhiễm trong lĩnh vực thuộc da và sản xuất nguyên phụ liệu da; phát triển các trang trại nuôi bò lấy da, mở rộng mạng lưới thu mua nguyên liệu da để tập trung tại các cơ sở có trang thiết bị, công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đó, tổ chức và hỗ trợ thành lập các trung tâm tiếp thị tìm kiếm thị trường tiêu thụ và đối tượng cung cấp sản phẩm hỗ trợ trong và ngoài nước, làm cầu nối giữa các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp nội địa. Thành lập và đưa vào hoạt động một số trang web chuyên ngành công nghiệp hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Trên cơ sở những chính sách của Nhà nước qua công tác thống kê, xây dựng cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp sản xuất hỗ trợ các doanh nghiệp cần chủ động hơn để tìm kiếm các mối liên kết ngang. Các doanh nghiệp ngành phụ trợ phải có sự liên kết chặt chẽ với các hợp tác xã sản xuất nguyên liệu thô để đảm bảo có được nguồn cung ứng dồi dào và chính sách giá cả thu mua hợp lý bởi vì nền tảng của sự hợp tác bao giờ cũng là đôi bên cùng có lợi. Các doanh nghiệp sản xuất chính thường xuyên phải cập nhập nhu cầu nguyên liệu đầu vào của mình với các doanh nghiệp phụ trợ để tận dụng tối đa nguyên liệu, tránh thừa thiếu một số chủng loại không đáng có.
2. Giải pháp nâng cao chất lượng và tạo thương hiệu riêng cho sản phẩm
Chất lượng đối với sản phẩm trong ngành da giày, dệt may và chất lượng doanh nghiệp trong ngành phần mềm chính là một trở ngại lớn của Việt Nam trong buôn bán làm ăn với nước ngoài. Cùng với những chính sách khác, nâng cao chất lượng cho sản phẩm là một biện pháp quan trọng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cho Việt Nam. Các doanh nghiệp da giày, dệt may cần xây dựng cho
mình hệ thống chất lượng như ISO 9000, ISO 14000, SA 8000 để tạo được sự yên tâm cho đối tác về chất lượng sản phẩm và doanh nghiệp mình. Các doanh nghiệp phần mềm cần cố gắng xây dựng tiến trình để đạt được những tiêu chuẩn cao trong hệ thống đánh giá năng lực doanh nghiệp phần mềm như CMMI cấp 3, 4 và cao nhất là cấp 5; ISO 9001…
Yếu tố thương hiệu là yếu tố sống còn với các doanh nghiệp. Một thương hiệu mạnh với hệ thống nhận diện thương hiệu nhất quán sẽ giúp doanh nghiệp không chỉ chiếm lĩnh được thị trường nội địa mà còn dễ dàng thâm nhập thị trường thế giới. Đối với người tiêu dùng, thương hiệu được coi là một sự đảm bảo về chất lượng từ phía nhà sản xuất và được định hình qua một quá trình trải nghiệm và đúc kết khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ mang thương hiệu đó. Thương hiệu được coi như sự xác nhận của doanh nghiệp đối với khách hàng về nguồn gốc và giá trị của sản phẩm, dịch vụ cung cấp. Và do đó, thương hiệu giúp khách hàng giảm thiểu những rủi ro có thể phải gánh chịu khi mua sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp như những sai hỏng về tính năng, những nguy hại đối với sức khoẻ, sự lừa gạt về mặt giá trị, những rủi do về mặt xã hội và những phí tổn về mặt thời gian hao phí trong trường hợp sảm phẩm không đảm bảo. Do chủ yếu làm gia công cho nên phần giá trị gia tăng dành cho các nhà sản xuất ngành dệt may, da giày là rất thấp. Với ngành GCPM, vì thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao nên so với các quốc gia như Ấn Độ, Philipin chúng ta vẫn còn nhiều thua thiệt trong giá cả gia công lẫn việc dành được các hợp đồng lớn. Vì vậy, xây dựng thương hiệu các sản phẩm này trở nên cấp thiết và là thách thức lớn đối với ngành. Trước hết, các doanh nghiệp phải tìm được lợi thế cạnh tranh, không xây dựng thương hiệu tràn lan, cần tìm sản phẩm mũi nhọn để xây dựng thương hiệu. Qua việc phân tích thị trường tiêu thụ, các đối thủ cạnh tranh, sử dụng lợi thế trong sản xuất, thiết kế, kỹ thuật, từ đó các doanh nghiệp có cơ sở để xây dựng thị trường "ngách", thí dụ như thời trang công sở dành cho phụ nữ tuổi trung niên, sơ-mi cao cấp cho doanh nhân, giày cho trẻ em... Ðồng thời họ cũng cần phải xây dựng hệ thống các thương hiệu hiện có, biểu tượng, tên gọi sản phẩm, hệ thống cửa hàng phân phối để mở rộng thị phần tiêu thụ sản phẩm và có các chương trình truyền thông dài hạn như quảng cáo, biểu diễn