Chương 1: Lý luận chung về hạch toán tài sản cố định nhằm tăng cường quản lý
tài sản cố định trong doanh nghiệp
1.1. Bản chất và vai trò của tài sản cố định trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm tài sản cố định
Bất kể một DN nào muốn tiến hành hoạt động SXKD đều phải có một số nguồn lực nhất định. Nguồn lực của DN có thể được hình thành từ chủ sở hữu DN hoặc từ các nguồn tài trợ bên ngoài và được sử dụng để đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu SXKD của DN. Trong số tài sản đầu tư sử dụng cho hoạt động SXKD của DN không thể không có TSCĐ.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện hạch toán tài sản cố định nhằm tăng cường quản lý tài sản cố định trong các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam - 1
- Hoàn thiện hạch toán tài sản cố định nhằm tăng cường quản lý tài sản cố định trong các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam - 2
- Ý Nghĩa Và Nhiệm Vụ Của Hạch Toán Tài Sản Cố Định
- Giá Trị Hao Mòn Và Khấu Hao Của Tài Sản Cố Định
- Hạch Toán Sửa Chữa Và Nâng Cấp Tài Sản Cố Định
Xem toàn bộ 238 trang tài liệu này.
Theo thông lệ quốc tế, TSCĐ là những tài sản phải thỏa m'n đồng thời hai tiêu chuẩn: Chắc chắn DN sẽ thu được lợi ích kinh tế trong tương lai do sử dụng tài sản đó và Giá trị của tài sản đối với DN có thể được xác định một cách đáng tin cậy [16, tr.306]. TSCĐ là một bộ phận chính trong tổng tài sản của DN, có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tình hình tài chính của DN. Việc xác định một khoản chi phí là tài sản hay chi phí có ảnh hưởng đáng kể đến thông tin được trình bày trên báo cáo tài chính của DN. Với tiêu chuẩn thứ nhất, để xác định một yếu tố có được ghi nhận là tài sản hay không DN phải đánh giá mức độ chắc chắn của việc thu được lợi ích kinh tế trong tương lai trên cơ sở các bằng chứng hiện có tại thời điểm hạch toán ban đầu. Lợi ích kinh tế thu được từ việc sử dụng tài sản chính là các lợi ích nhận được hoặc rủi ro mà DN phải gánh chịu liên quan đến tài sản. Tiêu chuẩn thứ hai đề cập đến bằng chứng chứng minh cho việc xác định nguyên giá của TSCĐ.
Các nhà nghiên cứu, xây dựng chế độ kế toán cho rằng: TSCĐ là biểu hiện của một nguồn lực do DN kiểm soát, được phát sinh từ các sự kiện trong quá khứ và
DN chắc chắn sẽ thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản trong DN [17]. Theo quan điểm này, TSCĐ bao gồm những nguồn lực hữu hình và vô hình mà DN đ' đầu tư nhằm tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai cho DN.
Theo các nhà nghiên cứu kế toán ở Mỹ thì: TSCĐ là những tài sản có thời gian sử dụng lâu dài, được đầu tư sử dụng cho hoạt động SXKD của DN, không phải
đầu tư để bán cho khách hàng [49, tr.509]. Khái niệm về TSCĐ này nhấn mạnh đến thời gian phát huy tác dụng của TSCĐ đối với hoạt động SXKD của DN, đồng thời TSCĐ đ' đầu tư sẽ hình thành nên cơ sở vật chất kỹ thuật cho DN và TSCĐ hoàn toàn khác biệt với hàng hóa.
Các nhà nghiên cứu kế toán tại Anh cho rằng: Một tài sản được ghi nhận là TSCĐ khi thỏa m'n đồng thời các điều kiện: Có thời gian sử dụng lâu dài; Được sử dụng cho hoạt động kinh doanh của DN và Không phục vụ mục đích kinh doanh thương mại [33, tr.224]. Khái niệm này tương đồng với quan điểm của các nhà nghiên cứu kế toán Mỹ.
ë Việt Nam, khái niệm về kế toán nói chung, TSCĐ nói riêng khác nhau tùy vào mục đích nghiên cứu, trình độ phát triển kinh tế - x' hội ở các thời kỳ khác nhau và sự thay đổi tương ứng phù hợp của chế độ tài chính và kế toán.
Theo Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam: “TSCĐ là bộ phận tài sản của DN, phục vụ sản xuất trong một thời kỳ dài, tham gia nhiều lần vào sản xuất sản phẩm theo mức độ hao mòn. TSCĐ bao gồm: nhà cửa, công trình kiến trúc, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, công cụ, dụng cụ,
đường ống...” [34]. Quan điểm này nhấn mạnh đến thời gian sử dụng lâu dài và tính dịch chuyển dần giá trị vào sản phẩm, dịch vụ của TSCĐ.
Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS 03, VAS 04): “Các tài sản được ghi nhận là TSCĐ phải thỏa m'n đồng thời tất cả bốn tiêu chuẩn ghi nhận sau:
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó;
- Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy;
- Thời gian sử dụng ước tính trên một năm;
- Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo quy định hiện hành [4, tr.11].
Tiêu chuẩn thứ nhất đề cập đến việc phát huy tác dụng của TSCĐ đối với hoạt
động SXKD của DN, đó là lợi ích kinh tế thu được hoặc rủi ro mà DN phải gánh chịu gắn liền với việc sử dụng tài sản. Tiêu chuẩn thứ hai nhấn mạnh việc xác định giá trị ban đầu của TSCĐ phải trên cơ sở các bằng chứng pháp lý gắn với các giao dịch kinh tế cụ thể như mua sắm, trao đổi hoặc tự xây dựng. Thời gian sử dụng TSCĐ có thể là thời gian mà DN dự tính sử dụng TSCĐ hoặc là số lượng sản phẩm, dịch vụ mà DN dự tính thu được từ việc sử dụng tài sản, thời gian sử dụng TSCĐ là một trong những căn cứ cho việc tính khấu hao TSCĐ. Giá trị tối thiểu của TSCĐ
được quy định cụ thể trong chế độ tài chính gắn với từng thời kỳ phát triển kinh tế - x' hội nhất định nhằm đơn giản hóa trong quản lý và hạch toán. Khái niệm về TSCĐ theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam đề cập toàn diện đến tính lợi ích thu được từ tài sản đầu tư, tính tin cậy của việc xác định nguyên giá tài sản, độ dài thời gian sử dụng và giá trị của tài sản.
Như vậy, các khái niệm về TSCĐ phần lớn cho rằng TSCĐ là những tài sản có giá trị đủ lớn, có thời gian sử dụng lâu dài và được đầu tư, sử dụng để mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai cho DN. Mỗi một quốc gia, tùy vào trình độ phát triển kinh tế, trình độ quản lý và sức mua của đồng tiền ở những thời điểm khác nhau có thể quy định giá trị tối thiểu để ghi nhận TSCĐ. Giá trị tối thiểu để ghi nhận là TSCĐ còn phụ thuộc vào quy mô hoạt động, đặc điểm về lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh và năng lực tài chính của mỗi DN. Thời gian sử dụng của TSCĐ phụ thuộc vào mức độ hao mòn, trình độ khai thác, quản lý của DN và những tiến bộ khoa hoc kỹ thuật chi phối. Thông thường, thời gian sử dụng của TSCĐ là một năm trở lên.
Từ những phân tích trên đây, có thể kết luận rằng: TSCĐ là những tài sản có hình thái vật chất hoặc không có hình thái vật chất, có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, được đầu tư sử dụng cho hoạt động SXKD của DN, không phải để bán.
1.1.1.2. Đặc điểm của tài sản cố định
Bất kể DN hoạt động trong lĩnh vực nào thì TSCĐ cũng là bộ phận tài sản đầu tư dài hạn quan trọng, phản ánh năng lực SXKD và ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả
kinh doanh của DN. Nghiên cứu đặc điểm của TSCĐ chi phối tổ chức công tác kế toán TSCĐ trong DN, lựa chọn mô hình quản lý TSCĐ cũng như phương pháp tính khấu hao TSCĐ. TSCĐ trong DN có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, TSCĐ là những tài sản có giá trị lớn, thuộc quyền quản lý, sử dụng của DN. Xuất phát từ đặc điểm này, DN cần theo dõi, quản lý chặt chẽ TSCĐ về hiện vật và chất lượng, tránh hiện tượng mất mát hay không sử dụng được, làm ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của DN. Đồng thời, DN cần lựa chọn hình thức đầu tư TSCĐ cho phù hợp với nhu cầu, đặc điểm hoạt động SXKD cũng như khả năng tài chính của DN.
Thứ hai, TSCĐ được đầu tư sử dụng cho nhiều chu kỳ SXKD hoặc nhiều năm hoạt động của DN. Không phải TSCĐ đầu tư sử dụng cho sản xuất sản phẩm một lần là hư hỏng và giá trị được chuyển toàn bộ vào giá thành sản phẩm. Chính vì vậy, DN phải quan tâm đến việc bảo vệ, sửa chữa TSCĐ và lựa chọn phương pháp tính khấu hao TSCĐ thích hợp nhằm đánh giá sát nhất mức độ hao mòn để thu hồi giá trị đ'
đầu tư của TSCĐ.
Thứ ba, trong quá trình tham gia vào hoạt động SXKD cho đến khi bị hư hỏng, TSCĐ giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu, đồng thời bị giảm dần về mặt giá trị và giá trị sử dụng (hiện tượng hao mòn TSCĐ). DN thực hiện thu hồi giá trị TSCĐ đ' đầu tư để tái sản xuất thông qua việc tính trích khấu hao TSCĐ.
Thứ tư, TSCĐ là bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của DN. TSCĐ có vai trò quan trọng trong việc phản ánh tình hình tài chính của DN và ảnh hưởng đáng kể đến thông tin được trình bày trên Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, DN cần quan tâm quản lý tốt và tổ chức hạch toán TSCĐ phù hợp nhằm nâng cao hiệu năng công tác quản lý và hiệu quả hoạt động kinh doanh.
1.1.2. Vai trò của tài sản cố định trong doanh nghiệp
TSCĐ là tư liệu lao động không thể thiếu đối với hoạt động của bất kỳ tổ chức nào. Trên bình diện quốc gia, TSCĐ cấu thành nên cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, nó đánh giá mức độ văn minh, trình độ phát triển của x' hội và sức mạnh kinh tế,
quốc phòng của một nước. Trong phạm vi DN, TSCĐ phản ánh trình độ trang bị kỹ thuật, khả năng SXKD cũng như năng lực cạnh tranh của DN trên thị trường. Vai trò của TSCĐ chỉ thể hiện khi nó được đầu tư đúng, sử dụng hợp lý và quản lý tốt để phát huy nguồn lực tài sản và mang lại giá trị sử dụng. Vai trò của TSCĐ trong DN
được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau:
Một là, TSCĐ thể hiện trình độ trang bị kỹ thuật của DN, trực tiếp ảnh hưởng
đến số lượng và chất lượng sản phẩm. Số lượng, chủng loại TSCĐ cũng như mức độ hiện đại hay lạc hậu của TSCĐ quyết định tính ổn định của sản xuất và hình thức, chất lượng của sản phẩm.
Hai là, TSCĐ góp phần giải phóng lao động chân tay của con người, tăng tính chuyên môn hóa của quá trình sản xuất, tăng năng suất lao động. Đồng thời, với tính đồng bộ và hiện đại của TSCĐ, DN có thể giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh và vị thế của mình trên thị trường.
Ba là, TSCĐ góp phần thúc đẩy DN nâng cao trình độ quản lý, tạo động lực khuyến khích người lao động học tập, nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề làm chủ khoa học kỹ thuật hiện đại. Cơ cấu, số lượng, chủng loại và trình độ TSCĐ chi phối tổ chức hoạt động SXKD và tổ chức bộ máy quản lý của DN. Đồng thời, để thích ứng với TSCĐ đ' được đầu tư và trang bị cho hoạt động SXKD, đòi hỏi người lao động phải học tập, nâng cao tay nghề chuyên môn, tăng năng suất lao động, cải thiện thu nhập và triển vọng phát triển nghề nghiệp.
1.1.3. Phân loại tài sản cố định trong doanh nghiệp
TSCĐ trong DN bao gồm nhiều loại, khác nhau về quy cách, chủng loại, đặc tính kỹ thuật, công dụng và yêu cầu quản lý, sử dụng. Chính vì vậy, để thuận lợi cho quản lý và hạch toán, cần thiết phải tiến hành phân loại TSCĐ theo những tiêu thức nhất định.
1.1.3.1. Phân loại tài sản cố định theo hình thái biểu hiện
Theo hình thái biểu hiện, TSCĐ trong DN được chia thành hai loại là TSCĐHH và TSCĐVH.
TSCĐHH là những loại TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể, thỏa m'n đồng thời các tiêu chuẩn ghi nhận đối với TSCĐHH [4, tr.10]. Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam về TSCĐHH (VAS 03), tài sản được ghi nhận là TSCĐHH phải thỏa m'n
đồng thời bốn tiêu chuẩn ghi nhận:
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó;
- Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy;
- Thời gian sử dụng ước tính trên một năm;
- Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo quy định hiện hành.
Theo quy định của Chế độ tài chính Việt Nam hiện hành, giá trị tối thiểu của TSCĐ phải từ 10.000.000 đồng trở lên. Đồng thời, TSCĐHH có thể là những tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều tài sản riêng lẻ liên kết với nhau
để cùng thực hiện một hoặc một số chức năng nhất định mà nếu thiếu một tài sản nào đó thì hệ thống không hoạt động được. Tuy nhiên, trong trường hợp một hệ thống gồm nhiều tài sản riêng lẻ liên kết với nhau nhưng mỗi bộ phận có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một tài sản nào đó mà hệ thống vẫn thực hiện được chức năng chính thì mỗi bộ phận riêng lẻ nếu thỏa m'n các tiêu chuẩn ghi nhận cũng được coi là một TSCĐHH độc lập.
Theo tính chất của tài sản, TSCĐHH trong DN bao gồm: Nhà cửa, vật kiến trúc; Máy móc, thiết bị; Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn; Thiết bị, dụng cụ quản lý; Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm và TSCĐHH khác.
TSCĐVH là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một số tiền nhất định mà DN đ' đầu tư nhằm thu được các lợi ích kinh tế trong tương lai. Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam về TSCĐVH (VAS 04) thì: “TSCĐVH là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị và do DN nắm giữ, sử dụng trong SXKD, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu
chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình” [4, tr.21]. VAS 04 quy định, một tài sản vô hình
được ghi nhận là TSCĐVH khi thỏa m'n đồng thời định nghĩa về TSCĐVH và bốn tiêu chuẩn ghi nhận như đối với TSCĐHH. Như vậy, mặc dù TSCĐ vô hình không có hình thái vật chất nhưng phải xác định được giá trị và được sử dụng cho hoạt
động SXKD của DN.
Các yếu tố cần xem xét khi xác định nguồn lực vô hình có thỏa m'n định nghĩa TSCĐVH hay không bao gồm: Tính có thể xác định được; Khả năng kiểm soát nguồn lực và Tính chắc chắn của lợi ích kinh tế trong tương lai [4, tr.22]. TSCĐVH có thể xác định riêng biệt khi DN có thể bán, cho thuê, trao đổi TSCĐVH. Khả năng kiểm soát nguồn lực được hiểu là quyền thu lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó và khả năng hạn chế sự tiếp cận của các đối tượng khác
đối với lợi ích đó. Lợi ích kinh tế trong tương lai do TSCĐVH mang lại cho DN có thể là: Tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí...
Chế độ tài chính Việt Nam hiện hành quy định tất cả các khoản chi phí mà DN đ' đầu tư thỏa m'n đồng thời các tiêu chuẩn ghi nhận đối với TSCĐHH, kết thúc giai đoạn đầu tư mà không hình thành TSCĐHH thì được ghi nhận là TSCĐVH [6, tr.6]. Theo tính chất của tài sản, TSCĐVH trong DN bao gồm: Quyền sử dụng
đất có thời hạn; Nh'n hiệu hàng hóa; Quyền phát hành; Phần mềm máy vi tính; Giấy phép và giấy phép nhượng quyền; Bản quyền, bằng sáng chế; Công thức và cách thức pha chế, kiểu mẫu, thiết kế và vật mẫu và TSCĐVH đang triển khai.
Việc phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện giúp quản lý có thể đánh giá cơ cấu đầu tư TSCĐ của DN, xây dựng mô hình quản lý tương ứng với từng loại TSCĐ, xác định được thời gian sử dụng cho mỗi loại TSCĐ và tổng hợp thông tin phục vụ lập báo cáo tài chính của DN.
1.1.3.2. Phân loại tài sản cố định theo mục đích sử dụng
Theo mục đích sử dụng, TSCĐ trong DN bao gồm: TSCĐ sử dụng cho hoạt
động SXKD; TSCĐ ngoài hoạt động SXKD và TSCĐ chờ thanh lý, điều chuyển. TSCĐ sử dụng cho hoạt động SXKD được chi tiết theo hoạt động, có thể có TSCĐ sử dụng cho hoạt động sản xuất sản phẩm, thực hiện dịch vụ; TSCĐ phục vụ hoạt
động bán hàng và TSCĐ dùng cho hoạt động quản lý hành chính, quản trị kinh doanh. TSCĐ ngoài hoạt động SXKD gồm TSCĐ phúc lợi và TSCĐ giữ hộ các đối tượng khác. TSCĐ chờ thanh lý, điều chuyển gồm những TSCĐ hiện không được sử dụng cho hoạt động SXKD của DN, đang trong quá trình làm thủ tục thanh lý, điều chuyển.
Việc phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng giúp kế toán có thể phân bổ chi phí khấu hao theo đối tượng sử dụng, đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ của từng hoạt động trong DN và gắn trách nhiệm vật chất của các cá nhân, bộ phận liên quan
đối với việc quản lý, sử dụng TSCĐ trong DN.
1.1.3.3. Phân loại tài sản cố định theo quyền sở hữu
Quyền sở hữu tài sản bao gồm đầy đủ các quyền quản lý, sử dụng, chiếm hữu và định đoạt tài sản. Căn cứ vào quyền sở hữu, TSCĐ trong DN bao gồm hai loại là TSCĐ thuộc quyền sở hữu và TSCĐ thuê ngoài.
TSCĐ thuộc quyền sở hữu là những TSCĐ do DN đầu tư bằng vốn góp, vốn bổ sung từ lợi nhuận, vốn liên doanh, liên kết và vốn vay, nợ. Đối với TSCĐ thuộc loại này, DN có toàn quyền quyết định trong các trường hợp: nhượng bán, thanh lý, cho, tặng, góp vốn, thế chấp (trừ trường hợp TSCĐ đầu tư bằng vốn vay).
TSCĐ thuê ngoài gồm những TSCĐ DN đi thuê của các tổ chức, cá nhân, DN khác theo hợp đồng thuê. Tùy theo bản chất của các điều khoản thỏa thuận trên hợp
đồng kinh tế, thuê tài sản được chia thành hai loại là thuê hoạt động và thuê tài chính.
Tài sản thuê hoạt động là những tài sản DN đi thuê của tổ chức, cá nhân khác
để sử dụng trong một thời gian nhất định mà khi kết thúc hợp đồng thuê không có sự chuyển giao quyền sở hữu. Trong thời gian hợp đồng thuê có hiệu lực, DN đi thuê có quyền quản lý, sử dụng nhưng không có quyền sở hữu, không ghi tăng tài sản và không tính khấu hao cũng như không được thay đổi kết cấu của tài sản thuê. DN cho thuê tài sản không ghi giảm tài sản trên báo cáo tài chính, khấu hao tài sản trong thời gian cho thuê là một khoản chi phí kinh doanh cho thuê tài sản.