Quyền lực nhà nước được tổ chức thống nhất theo nguyên tắc mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, đồng thời giữa các cơ quan nhà nước có sự phân công rành mạch các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, bảo đảm tổ chức bộ máy nhà nước vận hành có hiệu quả và thể hiện được bản chất bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân, vì các quyền và tự do của con người. Trong hệ thống cơ quan nhà nước, các chính quyền địa phương được phân cấp và giao quyền ngày càng mạnh hơn để chủ động triển khai những chính sách phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm thực hiện quyền con người tại địa phương.
Đảng cộng sản Việt Nam đã được Hiến pháp 2013 xác định là “... Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc...” [34] và “... là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và Xã hội”[34], hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. MTTQ Việt Nam và các tổ chức đoàn thể nhân dân như Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn luật sư, Hội nhà báo, Hội chữ thập đỏ Việt Nam, Hội bảo trợ người tàn tật khuyết tật, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam, Liên minh các Hợp tác xã Việt Nam...(tổng cộng hơn 300 tổ chức nhân dân bao gồm các tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp hoạt động trên phạm vi toàn quốc với hàng chục triệu hội viên) là những lực lượng rất đông đảo trong cơ chế bảo đảm thực hiện và phát triển quyền con người trong từng lĩnh vực cụ thể và trong toàn xã hội. Các tổ chức này cũng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của công dân, chăm lo bảo vệ, tổ chức thực hiện và phát triển quyền con
người ở Việt Nam. MTTQ Việt Nam, tổ chức đại diện và hiệp thương ý kiến của tất cả các đoàn thể và tổ chức nhân dân trong lĩnh vực chính trị, xã hội và các tổ chức nghề nghiệp, tôn giáo, dân tộc với đại diện của cả 54 dân tộc, của khoảng 20 triệu tín đồ của các tôn giáo khác nhau và khoảng 80% dân số có tín ngưỡng. Các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng hoàn thiện để MTTQ và các tổ chức xã hội, đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, để các dân tộc và tôn giáo thực hiện quyền bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau phát triển. Các cơ quan chính quyền mang bản chất nhân dân, tăng cường tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường xuyên lắng nghe ý kiến phản ánh về những vấn đề mà nhân dân quan tâm.
Tập hợp trong Tổng liên đoàn lao động Việt Nam có 18 tổ chức công đoàn cấp quốc gia ở các ngành, lĩnh vực khác nhau và có 6020 tổ chức công đoàn ở địa phương. Các tổ chức này tích cực tham gia vào việc xây dựng chính sách lao động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua việc hướng dẫn và thực hiện hợp đồng lao động, đồng thời đóng vai trò đại diện cho người lao động trong thương lượng, ký kết các thỏa ước lao động tập thể, các quy chế dân chủ cơ sở. Bên cạnh đó, các tổ chức thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh... và hàng nghìn hội, hiệp hội, câu lạc bộ hoạt động trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có số lượng lớn các tổ chức từ thiện và cứu trợ nhân đạo quan hệ trực tiếp tới thực hiện và phát triển quyền con người ở các lĩnh vực, hoàn cảnh khác nhau. Các tổ chức và hiệp hội hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, tự quản, độc lập và tuân thủ pháp luật. Chính phủ trợ giúp tài chính nếu các chương trình, dự án và hoạt động phù hợp với chính sách phát triển kinh tế, xã hội và lợi ích chung của cộng đồng. Tốc độ tăng lên nhanh chóng của hàng nghìn các cơ sở của tổ chức xã hội, cơ sở của tổ chức xã hội nghề nghiệp và các đoàn thể quần chúng chứng tỏ nhu cầu thành lập hiệp hội của người dân tăng nhanh, quyền tự do thành lập và tham gia các tổ chức, hiệp hội được tôn trọng và bảo đảm.
Mỗi công dân Việt Nam, mỗi người trong xã hội là một chủ thể thụ hưởng các quyền con người và cũng là chủ thể thực hiện các quyền đó. Đảng và Nhà nước Việt Nam coi trọng việc nâng cao ý thức người dân trong việc thụ hưởng các quyền con người trên cơ sở tuân thủ pháp luật. Vai trò giám sát của nhân dân được tăng cường thông qua việc công khai và minh bạch hóa các hoạt động của Chính phủ, Quốc Hội và các cơ quan tư pháp. Các phiên họp Quốc Hội, đặc biệt là các phiên có trả lời chất vấn của các thành viên chính phủ, được truyền hình trực tiếp giúp người dân chủ động tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Cơ chế lấy ý kiến của nhân dân đối với các dự luật và chính sách của Nhà nước đã đang được áp dụng rộng rãi. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 đặt ra yêu cầu rất cao về tính công khai, minh bạch, dân chủ và tính khả thi của công tác lập pháp, lập quy, bảo đảm quyền của các pháp nhân và cá nhân được tham gia vào công tác lập pháp và các hoạt động của nhà nước. Hệ thống báo chí phát triển mạnh mẽ góp phần đảm bảo cho người dân có quyền được thông tin và trở thành các diễn đàn rộng rãi để mọi người và mỗi người chủ động thực hiện quyền làm chủ xã hội và tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật bảo đảm thực hiện và phát triển quyền con người.
Qua thực tế, cơ chế đảm bảo thực thi, phát triển quyền con người, quyền công dân gặp một số khó khăn, thách thức như sau:
Thứ nhất, chúng ta chưa có cơ quan độc lập và chuyên trách để thực hiện chức năng bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp (bảo hiến). Khi xem xét về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước, thì có rất nhiều cơ quan có thẩm quyền tham gia vào việc bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Chức năng bảo hiến này được thực hiện thông qua chức năng giám sát tối cao của Quốc hội lồng ghép vào với nhiệm vụ, quyền hạn của nhiều cơ quan khác nhau. Trong các cơ quan đó, ủy ban Pháp luật của Quốc
hội tạm được xem là chuyên trách nhất trong vấn đề bảo hiến, vì cơ quan này có chức năng, nhiệm vụ là bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật, dự án pháp lệnh trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua. Nhưng đây lại không phải là nhiệm vụ, quyền hạn duy nhất của cơ quan này, mà cơ quan này còn rất nhiều các nhiệm vụ, quyền hạn khác và hầu như, trong thời gian qua, ủy ban Pháp luật buông xuôi chức năng này. Ngay cả khi, Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội làm tốt chức năng này, thì công việc của Uỷ ban vẫn thuộc giai đoạn “tiền kiểm”, còn ở giai đoạn “hậu kiểm” thì cơ chế bảo hiến của nước ta hiện nay lại được thực hiện thông qua cơ chế giám sát trong chức năng giám sát tối cao của Quốc hội và các cơ quan thực hiện chức năng bảo hiến cũng thông qua chức năng giám sát. Còn hoạt động giám sát của từng cơ quan lại bao gồm cả hoạt động bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp thông qua việc xem xét các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước khác có trái với Hiến pháp hay không. Điều này được thể hiện qua các quy định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 về hoạt động giám sát của các cơ quan này. Trong tiến trình xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cùng với yêu cầu hội nhập sâu rộng về nhiều mặt trong các quan hệ quốc tế, thì việc chúng ta có được một cơ quan bảo hiến độc lập và chuyên trách để đảm bảo những quy định của Hiến pháp luôn được tôn trọng và thực thi là vô cùng cấp bách.
Thứ hai, Việt Nam vẫn là một nước nghèo, xuất phát điểm thấp, đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng núi, vùng sâu vùng xa, vùng thường bị thiên tai, còn rất nhiều khó khăn. Mặc dù Chính phủ đã dành nhiều ưu tiên cho phát triển các vùng đặc biệt khó khăn thông qua các Chương trình xóa đói giảm nghèo, trợ giúp pháp lý, tín dụng cho vay, miễn phí trong giáo dục và các chính sách ưu tiên đặc biệt, nhưng do nguồn lực của đất nước còn
hạn chế nên ở nhiều địa phương, cơ sở vật chất của các ngành y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, thông tin, thể thao...còn thiếu thốn, ảnh hưởng đến việc hưởng thụ đầy đủ các quyền của người dân, đã và đang đặt ra những thử thách mới ngày càng phúc tạp hơn trong việc vận hành cơ chế đảm bảo thực hiện và phát triển quyền con người. Trình độ phát triển kinh tế hiện có là thực tại khác quan chi phối và ảnh hưởng trực tiếp sự hình thành phát triển các giá trị xã hội, trong đó có giá trị quyền con người.
Có thể bạn quan tâm!
- Quyền Tự Do Đi Lại Và Lựa Chọn Nơi Ở
- Quyền Kết Hôn, Lập Gia Đình Và Bình Đẳng Trong Hôn Nhân.
- Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành - 10
- Kiến Nghị Hoàn Thiện Các Quy Định Về Quyền Dân Sự Đối Với Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam
- Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành - 13
- Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành - 14
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
Thứ ba, Đặc điểm về địa lý, con người, dân cư, Việt Nam có lãnh thổ trải dài hơn 2000km từ Bắc xuống Nam, địa hình đồi núi chiếm ba phần tư diện tích đất nước. Dân cư sống phân tán trên các vùng miền với ngôn ngữ, phong tục, tập quán và điều kiện sinh hoạt rất khác nhau. Đặc biệt, những người dân sống ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số, do hạn chế trong việc tiếp cận với các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, thông tin... nên trình độ học vấn còn thấp, sự hiểu biết về pháp luật, chính sách cũng như năng lực tuân thủ pháp luật còn hạn chế. Điều này gây rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng và triển khai các chính sách cụ thể nhằm đảm bảo các quyền con người, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa miền núi và đồng bằng, nông thôn và thành thị. Những biến động của tác động môi trường sống tự nhiên, về khí hậu, thời tiết, nguồn nước, ô nhiễm môi trường... đang có những tác động tiêu cực tới cơ chế đảm bảo thực hiện và phát triển quyền con người. Cùng với biến đổi khí hậu theo chiều hướng bất lợi, sự nóng lên của khí hậu toàn cầu, mực nước biển ngày càng dâng cao; thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng nặng nề dồn dập, vệ sinh an toàn thực phẩm không bảo đảm cùng với gian lận thương mại ảnh hưởng trực tiếp tới quyền của người tiêu dùng, các loại bệnh, dịch bệnh chưa được giải quyết dứt điểm và tiếp tục diễn biến phức tạp... Những thách thức này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới thực hiện quyền và
lợi ích của mỗi tập thể và cá nhân trong xã hội mà còn làm phân tán và suy giảm các nguồn lực của đất nước, làm giảm hiệu quả của các chính sách khuyến khích và bảo đảm thực hiện, phát triển con người, hạn chế khả năng hưởng thụ các giá trị quyền con người.
Thứ tư, sự phát triển của kinh tế thị trường một mặt đã đem đến sự đổi mới và phát triển nhanh chóng mọi mặt đời sống, xã hội, tôn vinh các giá trị lao động sáng tạo và xuất hiện sự sung túc, giàu sang, thỏa mãn ngày càng cao các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, nhưng mặt khác kéo theo những tiêu cực và vấn nạn xã hội đáng lo ngại, ảnh hưởng trực tiếp tới vận hành cơ chế đảm bảo thực hiện và phát triển quyền con người. Thất nghiệp gia tăng; sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng miền ngày càng lớn; nạn tham những và sử dụng phung phí tiền bạc, tài sản xã hội diễn biến theo chiều hướng phức tạp. Những tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS và tình trạng bạo lực có chiều hướng lan rộng; tai nạn giao thông ngày càng tăng; môi trường sống bị ô nhiễm, dân số tăng nhanh... Bên cạnh đó, những phong tục, tập quán và định kiến mang tính địa phương, cục bộ vẫn còn nặng nề tạo nên những sự cách biệt nhất định về giới, về vùng miền, về thu nhập, về vị thế xã hội, về tâm lý xã hội... đặt ra những thách thức mới về quyền bình đẳng giữa người với người và các giá trị công bằng xã hội. Tư tưởng trọng nam khinh nữ; nạn ngược đãi phụ nữ, bạo lực gia đình và tính gia trưởng vẫn tồn tại, nhất là ở những nơi trình độ dân trí còn thấp. Những vấn nạn này không chỉ ảnh hưởng đến từng người dân trong việc hưởng thụ các quyền, đặc biệt là quyền sống và quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, mà còn là thách thức đối với các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp và các tổ chức xã hội trong việc xây dựng và triển khai các chính sách nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân, bảo đảm thực hiện và phát triển quyền con người.
Thứ năm, Việc nhận thức và thực hiện pháp luật theo thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật còn nhiều hạn chế. Quyền con người được bảo đảm bằng pháp luật, việc thực hiện pháp luật không nghiêm minh có ảnh hưởng trực tiếp tới hưởng thụ quyền con người. Ý thức pháp luật và sự hiểu biết các quy định pháp luật là yếu tố đầu tiên chi phối hành vi sống và làm việc theo hiến pháp, pháp luật. Tuy nhiên nhiều trường hợp vi phạm pháp luật lại không phải vì không hiểu biết các quy định pháp luật mà vì chưa có thói quen tôn trọng pháp luật, chưa coi thực hiện pháp luật như thực hiện mệnh lệnh của cuộc sống. Cơ chế quyền kiểm soát quyền, cơ chế độc lập cao và chế ước, kiểm tra kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực để bảo đảm mọi người mọi tổ chức đều tuân thủ nghiêm minh pháp luật, không một tổ chức và cá nhân nào, kể cả đối với nhà nước có thể đứng trên hoặc đứng ngoài pháp luật vẫn đang là một thách thức mới trong cải cách lập pháp, cải cách tư pháp và cải cách hành chính để bảo đảm quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước là thống nhất nhưng có phân công rành mạch giữa ba quyền có tính độc lập cao và kiểm soát lẫn nhau, một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thể không nói đến đổi mới công tác lập pháp, đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất để cơ quan này xứng đáng là cơ quan đại diện trực tiếp quyền lực của nhân dân cả nước. Diễn đàn Quốc Hội phải thực sự là tiếng nói của nhân dân, thông qua Quốc Hội, nhân dân quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và thực hiện quyền quản lý nhà nước. Mỗi đại biểu Quốc Hội phải thực sự là đại diện của cử tri, của từng người dân, có trách nhiệm cao nhất đối với chất lượng các đạo luật và nghị quyết được Quốc Hội thống qua.
Thứ sáu, Hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung, trong lĩnh vực quyền con người nói riêng, còn chưa đồng bộ, có chỗ còn chồng chéo, mâu
thuẫn dẫn tới khó khăn, thậm chí hiểu sai, trong quá trình vận dụng và thực thi pháp luật. Đây chính là vật cản lớn đối với sự phát triển của xã hội cũng như trong việc bảo đảm thực hiện, phát triển con người. Nhận diện thách thức đó, Chính phủ Việt Nam đang triển khai Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam định hướng đến năm 2020, trước mắt là rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm loại bỏ các văn bản luật mâu thuẫn, chồng chéo, không còn phù hợp với thực tiễn; bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất, khải thi, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận và dễ thự hiện các văn bản quy phạm pháp luật này, bảo đảm có hệ thống pháp luật và pháp chế thống nhất phản ánh những nhu cầu thực tiễn của xã hội, những gì xã hội có, xã hội cần, xã hội có thể chấp nhận và thực hiện được, một hệ thống pháp luật vì con người và sự phát triển của con người.
Thứ bảy, trình độ và nhận thức về quyền con người của một bộ phận cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp trong bộ máy nhà nước, trong hệ thống chính trị, trong các tổ chức, đoàn thể xã hội còn nhiều hạn chế, kể cả ở trung ương và địa phương, trong tất cả các ngành và các lĩnh vực công tác. Sự hạn chế về nhận thức không chỉ ở chỗ không hiểu biết các quy định của luật pháp quốc tế và nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người, mà còn chưa hiểu biết đầy đủ sứ mệnh phục vụ nhân dân trong thực thi công vụ và những yêu cầu cơ bản về nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Không hiểu rõ chính sách, pháp luật và nhận thức hạn chế về quyền con người là một nguyên nhân của căn bệnh quan liêu hành chính và cách điều hành tùy tiện để xảy ra các vụ việc vi phạm, làm hạn chế và ảnh hưởng đến việc thụ hưởng quyền của người dân, là thách thức lớn với sự vận hành của cơ chế bảo đảm thực hiện và phát triển quyền con người.