Tình Hình Chi Quản Lý Của Hệ Thống Bhxh Việt Nam

Như vậy, chỉ sau hơn 10 năm phát triển quỹ BHXH ngày càng lớn mạnh, khả năng chi trả ngày càng lớn làm giảm gánh nặng cho NSNN. Tuy nhiên, chi quỹ có xu hướng gia tăng nhanh cũng có nghĩa là trách nhiệm của quỹ BHXH ngày càng nặng nề. Chính vì lẽ đó mà phải tìm mọi biệm pháp giúp cho quỹ BHXH tăng trưởng vững mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của BHXH Việt Nam.

Chi quản lý của hệ thống BHXH Việt Nam.

Muốn hoạt động của bộ máy có hiệu quả thì việc xây dựng một hệ thống định mức chi quản lý hoạt động BHXH phải thống nhất, khoa học, phù hợp với đặc thù của ngành làm căn cứ để kiểm tra, giám sát mọi hoạt động tài chính trong hệ thống BHXH Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết. Từ 01/10/1995 đến nay, quy chế quản lý tài chính đối với BHXH trải qua các giai đoạn chủ yếu:

- Từ 10/1995 đến 31/12/1996: kinh phí chi quản lý bộ máy do NSNN cấp và được áp dụng nội dung định mức chi hoạt động như những đơn vị sự nghiệp đơn thuần.

- Từ 01/01/1997 đến 31/12/1997: Trích kinh phí chi quản lý theo chỉ tiêu Bộ Tài chính giao.

- Từ 01/01/1998 đến 31/12/2000: Nguồn kinh phí chi quản lý hệ thống BHXH Việt Nam trích bằng 6% trên số thu BHXH hàng năm (do các đối tượng tham gia BHXH đóng góp).

- Từ 1/1/2001 đến 31/12/2002: Giảm tỉ lệ trích kinh phí chi quản lý bộ máy trên số thực thu BHXH hàng năm từ 6% xuống 4%. Nguồn kinh phí chi thường xuyên lấy từ lãi thu được từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ .

- Từ 01/01/2003 đến 31/12/2004: Theo quyết định số 02/2003/QUY ĐịNH-TTg mức trích cho hoạt động thường xuyên vẫn là 4% tính trên tổng thu BHXH và BHYT; nội dung chi thường xuyên đã được gộp chi nghiên cứu khoa học và đào tạo lại.

- Từ năm 2005 đến nay:Theo quyết định số 14/2005/QĐ-TTg, mức trích 3,6% (ổn định từ năm 2005- 2007) được trích từ tiền sinh lời do thực hiện biệm pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo tỷ lệ phần trăm trên số thu BHXH, BHYT hàng năm. Vì vậy cần phải tăng cường hiệu quả đầu tư tăng trưởng quỹ .

Kết quả hoạt động chi quản lý bộ máy được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 4: Tình hình chi quản lý của hệ thống BHXH Việt Nam



Năm

Chi quản lý (Triệu đồng)

Lượng tăng tuyệt đối liên hoàn (Triệu đồng)

1998

156.457

-

1999

179.083

22.626

2000

196.849

17.766

2001

238.092

41.243

2002

262.041

23.949

2003

478.753

216.712

2004

529.596

50.843

2005

622.278

92.682

2006

622.370

192

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong thời gian tới - 7


Nguồn: BHXH Việt Nam


Qua bảng số liệu ta thấy : Chi hoạt động quản lý bộ máy BHXH ngày càng tăng lên. Năm 2006, mức chi là 622.370 triệu đồng gấp gần 4 lần so với mức chi năm 1998. Lượng tăng tuyệt đối liên hoàn cũng khác nhau qua các năm, năm 2003 có lượng tăng cao nhất (216.712 triệu đồng), nguyên nhân là do sự sát nhập của BHYT Việt Nam vào BHXH Việt Nam nên tổng chi phí quản lý tăng lên cao; mặt khác, sự thay đổi lượng tăng trên là do thực hiện các quy định pháp lý về mức chi quản lý quỹ thay đổi qua từng giai đoạn.Việc định mức chi quản lý các hoạt động của hệ thống có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu chi phí quản lý bộ máy mà vẫn quản lý các hoạt động của hệ thống một cách hiệu quả, đồng thời làm tăng ý thức tiết kiệm của toàn ngành BHXH. Để tăng nguồn chi phí cho quản lý quỹ đòi hỏi phải tăng cường hiệu quả đầu tư quỹ .

3. Quỹ BHXH Việt Nam và nguy cơ mất cân đối quỹ.

Ở nước ta, vấn đề cân đối giữa thu và chi dài hạn của quỹ BHXH có nhiều khả năng bởi vì một yếu tố cơ bản là số người trong độ tuổi lao động chưa tham gia BHXH còn chiếm tỷ lệ cao. Tuy nhiên, việc thay đổi một nội dung của các chính sách như giảm tuổi nghỉ hưu để giảm biên chế, giảm tuổi nghỉ hưu cho lao động nặng nhọc, độc hại, trợ cấp cho các biệm pháp kế hoạch hoá dân số…làm cho thay đổi nhiều khoản trợ cấp

BHXH. Do vậy, nếu trong thời gian tới ta không mở rộng đối tượng tham gia BHXH và hạn chế tình trạng trợ cấp không đúng người của BHXH (tăng thu, giảm chi) thì quỹ BHXH có thể đảm bảo ổn định lâu dài. Mặc dù vậy, trên thực tế, khả năng mất cân đối quỹ BHXH vẫn có thể xảy ra nếu không có các biệm pháp kịp thời điều chỉnh, khắc phục. Theo quy định hiện hành được áp dụng, người lao động và chủ sử dụng đóng 15%

tiền lương để chi lương hưu và tử tuất cho người lao động. Người lao động chỉ cần tham gia đóng 15 năm, nếu nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi thì họ được hưởng lương hưu bình quân khoảng 13,5 năm. Như vậy, mức hưởng gần gấp ba lần mức đóng.

Một thực tế khác, do chế độ về hưu sớm, tỷ lệ người đóng BHXH cho một người hưởng lương hưu giảm dần, năm 2000 là 34/1, năm 2002 là 23/1 và năm 2004 là 19/1. Mặt khác, cân đối quỹ còn bị tác động bởi các chính sách xã hội khác như: chính sách việc làm, tiền lương…Theo thiết kế tuổi về hưu của nam là 60 tuổi, nữ là 55 tuổi, tuổi về hưu bình quân là 57,5. Nhưng từ những năm 1995 đến 2003, tuổi về hưu bình quân của chúng ta là 51,5 tuổi, giảm 6 tuổi so với thiết kế chính sách. Theo mặt bằng năm 2003, mỗi người nghỉ việc hưởng lương hưu trước một năm thì quỹ BHXH giảm khoảng 10 triệu đồng. Với số người về hưu trước tuổi tăng lên rất nhanh trong 10 năm qua thì quỹ BHXH phải chi ra số tiền rất lớn. Việc điều chỉnh tiền lương tổi thiểu từ 120.000 đồng năm 1995 lên 450.000 đồng như hiện nay càng làm số chi từ quỹ BHXH tăng lên nhiều vì phải chi trả cho đối tượng theo mức lương hiện tại lúc nghỉ hưu. Thêm vào đó chính sách đối với người lao động dôi dư theo Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 của Chính phủ quy định người lao động thuộc diện dôi dư sau khi nhận trợ cấp mất việc vẫn được bảo lưu hoặc tự đóng tiếp BHXH cho đến lúc đủ tuổi nghỉ hưu để hưởng chế độ hưu trí và tử tuất.

Tiếp nữa, số người tham gia BHXH từ trước năm 1995 thuộc diện Nhà nước chi trả BHXH , nhưng hiện tại, ước tính BHXH Việt Nam đang phải chi trả khoảng 1,8 triệu người thuộc diện này, số tiền chi trả cho họ khá lớn trong khi đó NSNN vẫn chưa cấp đủ cho quỹ BHXH.

Nếu xét khía cạnh đầu tư quỹ nhàn rỗi nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ, thì trong thời gian qua, nguồn lãi thu được từ đầu tư quỹ khá lớn. Song khi so sánh với các nước trên thế giới thì số tiền lãi này còn quá nhỏ, mặt khác,tỉ lệ lạm phát ở Việt Nam trong những năm qua còn cao và nếu tính bình quân thì cũng chỉ ngang bằng tỷ lệ trượt giá ở Việt Nam hiện nay.

Theo tính toán, dự báo năm 2022, thu sẽ cân đối được chi, tiếp theo đó quỹ sẽ giảm dần, do tốc độ tăng thu BHXH sẽ chậm dần và tốc độ tăng chi sẽ tăng lên rất nhanh, đặc biệt là chi chế độ hưu trí. Đến năm 2030 theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và các chuyên gia tài chính, nếu chúng ta không có những điều chỉnh chính sách, chắc chắn quỹ BHXH sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất cân đối.

Cân đối thu chi quỹ BHXH hiện nay là vấn đề hết sức quan trọng xét cả tính chất và nội dung: Giải pháp mang tính nguyên tắc đó là tăng nguồn thu cho quỹ (mở rộng hình thức BHXH, mở rộng chế độ BHXH, mở rộng đầu tư tham gia,nâng cao hiệu quả đầu tư từ quỹ, nâng cao hiệu quả quản lý thu); quản lý chi; làm tốt công tác dự báo thu chi quỹ. Như vậy, nâng cao hiệu quả đầu tư từ quỹ BHXH là một trong yếu tố không những làm cân đối mà còn làm cho quỹ BHXH ngày càng phát triển giúp giảm nhẹ gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước .

III. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH VIỆT NAM

1. Các quy định pháp lý

BHXH Việt Nam được thành lập theo Nghị định 19/Chính phủ ngày 26/02/1995 của Chính phủ. Tại điều 3 của Nghị định này và điều 5 của Quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam, ban hành kèm theo Quyết định số 606/TTg ngày 26/9/1995 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định BHXH có 16 nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ thứ 5 là: Xây dựng và tổ chức thực hiện dự án và biệm pháp bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH. Trong quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam cũng có riêng phần chương V quy định hoạt động bảo tồn giá trị tăng trưởng quỹ BHXH. Điều 17 của chương V quy định rõ: BHXH Việt Nam được sử dụng tiền tạm thời nhàn rỗi của Quỹ BHXH để thực hiện các biệm pháp bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ.

Như vậy, Chính phủ đã quy định rõ BHXH Việt Nam có nhiệm vụ đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH, quy định đó rất phù hợp với tình hình thực tế ở nước ta trong giai đoạn ngày nay.

Theo quyết định số 02/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, các biệm pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH bao gồm:

- Mua trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, công trái của kho bạc Nhà nước và Ngân hàng thương mại Nhà nước.

- Cho NSNN, quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, các Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng chính sách vay.

- Đầu tư vào một số dự án có nhu cầu về vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định.

BHXH Việt Nam có trách nhiệm thực hiện các biệm pháp bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH. Việc dùng tiền tạm thời nhàn rỗi của các quỹ bảo hiểm để đầu tư đảm bảo an toàn, bảo toàn giá trị, có hiệu quả kinh tế - xã hội. Tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư hàng năm được phân bổ:

+ Trích kinh phí quản lý của hệ thống BHXH Việt Nam.

+ Trích quỹ khen thưởng và phúc lợi.

+ Phần còn lại được phân bổ vào các quỹ Bảo hiểm .

* Về lãi suất đầu tư:

Lãi suất của các khoản cho hệ thống Ngân hàng thương mại Nhà nước, Quỹ hỗ trợ phát triển, Ngân hàng Chính sách theo lãi suất thị trường được Ngân hàng Nhà nước công bố; lãi suất cho Ngân sách Nhà nước vay, mua công trái, trái phiếu Chính phủ do Chính phủ quyết định.

* Cơ chế tạo lập nguồn vốn:

Nguồn vốn đầu tư = Số dư năm trước + Tổng thu BHXH - Tổng chi BHXH quỹ BHXH chuyển sang trong năm trong năm

* Đánh giá chung:

+ Việc áp dụng nguồn tồn tích qua các năm đã không phân biệt rõ nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn, từ đó gây khó khăn cho công việc hoạch định nguồn vốn cho hoạt động đầu tư.

+ Với phương pháp đã áp dụng chỉ xác định cho từng năm mà không phục vụ cho chiến lược đầu tư dài hạn. Việc xác định cho từng năm chỉ phù hợp cho nguồn vốn đầu tư ngắn hạn.

+ Các quy định pháp lý chưa thể hiện được nguyên tắc đa dạng hoá danh mục đầu tư

+ Các hình thức đầu tư từ quỹ BHXH còn đơn giản.

2. Thực trạng hoạt động đầu tư quỹ BHXH 2.1.Quy mô vốn đầu tư từ quỹ BHXH

Theo số liệu thống kê của BHXH Việt Nam, số tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH được đem đi đầu tư với mục đích bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH chiếm tỷ trọng tương đối lớn so với số dư quỹ BHXH hàng năm. Ta có bảng số liệu sau:

Bảng 5: Tỷ trọng số tiền nhàn rỗi đem đầu tư trong tổng số tiền nhàn rỗi



Năm


Dư năm trước (Tỷ đồng)

Số tiền nhàn rỗi đem đầu tư

(Tỷ đồng)


Tỷ trọng số tiền đem đầu tư

(%)

1998

9.227

7.493

81,21

1999

12.784

10.628

83,14

2000

17.207

15.663

91,03

2001

22.574

20.430

90,50

2002

28.557

25.270

88,49

2003

36.101

34.120

94,51

2004

45.214

42.570

94,15

2005

55.372

50.500

91,20

2006

67.077

63.200

94,22

Nguồn BHXH Việt Nam

Qua bảng số liệu ta thấy, tổng số tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH luỹ kế ngày càng tăng, tính đến hết ngày 31/12/2006 số dư này đã lên tới 67.077 tỷ đồng, đây là nguồn vốn rất lớn tương đương với một ngân hàng cỡ lớn. Số tiền đầu tư luỹ kế năm 2006 ước đạt

63.200 tỷ đồng chiếm 94,22%.

Quỹ BHXH Việt Nam do Bảo hiểm xã hội Việt Nam quản lý được hình thành từ tháng 10/1995, song hoạt động đầu tư tăng trưởng lại thực sự bắt đầu từ năm 1997. Tỷ trọng đầu tư trong tổng quỹ luôn chiếm tỷ trọng rất lớn và ngày càng gia tăng, đặc biệt từ năm 2003 đến nay tỷ trọng luôn đts trên 91%. Như vậy, nguồn vốn nhàn rỗi đem đi đầu tư ngày càng gia tăng chứng tỏ trong hoạt động quản lý quỹ BHXH, hoạt động đầu tư quỹ ngày càng đóng vai trò quan trọng, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH. Mặt khác, tổng vốn đầu tư từ quỹ BHXH tăng lên với tốc độ cao và nguôn vốn nhàn rỗi hàng năm sẽ mở ra tiềm năng lớn cho BHXH Việt Nam tham gia vào các hoạt động đầu tư của thị trường tài chính rộng lớn.

2.2.Phân bổ nguồn vốn đầu tư

Hiện nay, BHXH Việt Nam mới chỉ thực hiện các biệm pháp đầu tư như mua trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước; cho quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, các Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng chính sách vay. Số dư của quỹ BHXH gửi tại hai tài khoản tiền gửi của Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp

là khá cao; nhưng lại chưa thực hiện vào một số dự án có nhu cầu về vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Việc phân bổ nguồn vốn đầu tư từ quỹ BHXH được thể hiện qua bảng số liệu sau:

Bảng 6 : Phân bổ danh mục đầu tư từ quỹ BHXH Việt Nam

Đơn vị : %




Năm

Danh mục

đầu tư quỹ BHXH


2000


2001


2002


2005


2006*

Cho vay đối với NSNN

13,3

12,0

21,6

21,5

22,1

Quỹ hỗ trợ phát triển vay

39,6

37,7

34,5

19,52

18,9

Ngân hàng thương mại Nhà nước vay

36,3

46,7

41,1

39,78

39,97

Mua công trái

4,5

3,6

2,8

1,75

1,68

Mua trái phiếu Chính phủ

6,3



17,45

17,35

Tổng

100

100

100

100

100


Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam Tạp chí BHXH Việt Nam

Nhìn vào bảng số liệu qua các năm ta thấy: Trong những năm 2000-2002,Vốn đầu tư phân bổ chủ yếu vào 2 danh mục: Tiền gửi Ngân hàng và cho vay thông qua quỹ hỗ trợ phát triển,nhưng trong vài năm lại đây, số tiền đầu tư lại được phân bổ chủ yếu cho 3 danh mục: Tiền gửi Ngân hàng, cho quỹ hỗ trợ phát triển vay và mua trái phiếu Chính phủ. Tỷ trọng vốn đầu tư vào công trái có xu hướng giảm từ 4,5%(năm 2000) còn 1,68% (năm 2006).Tỷ trọng vốn dành cho NSNN có xu hướng tăng lên từ 13,3% (năm 2000) lên trên 21% (giai đoạn 2002-2006)

Các hoạt động đầu tư vào thị trường chứng khoán, các công trịnh trọng điểm quốc gia, các dự án, đầu tư bất động sản hay cho các doanh nghiệp vay thì chưa được BHXH Việt Nam thực sự quan tâm và thực hiện.

* Rủi ro trong BHXH :


Tổng rủi ro các

=

Rủi ro

+

Rủi ro

danh mục đầu tư


hệ thống


phi hệ thống

Đối với BHXH hiệu quả trước hết là từ tiêu chuẩn “rủi ro nhỏ nhất” sau đó là “lợi suất tối đa có thể đạt được”. Khi đánh giá rủi ro, Nhà đầu tư đánh giá rủi ro từng tài sản và cả danh mục tài sản đầu tư, để loại bỏ rủi ro phi hệ thống bằng việc kết hợp nhiều tài sản trong danh mục đầu tư (hay đa dạng hoá) , trong khi rủi ro hệ thống là yếu tố không thể loại bỏ.

2.3. Đánh giá hiệu quả đầu tư từ quỹ BHXH.

Hàng năm, số tiền nhàn rỗi đem đi đầu tư và mang lại số tiền lớn cho quỹ BHXH, tình hình về hiệu quả đầu tư của quỹ BHXH được thể hiện ở bảng sau:


Bảng 7: Lợi suất đầu tư được điều chỉnh theo vốn của BHXH Việt Nam



Năm

Tổng vốn đầu

tư đầu năm (Tỷ đồng)

Tổng vốn đầu

tư cuối năm (Tỷ đồng)


Tổng vốn đầu tư bình quân năm (Tỷ đồng)


Số lãi thu được

(Triệu đồng)


Lợi suất được điều chỉnh theo vốn (%)

1997

1.078

4.072

210

2575

8,16

1998

4.072

7.493

470

5782,5

8,13

1999

7.493

10.628

670

9060,5

7,39

2000

10.628

15.663

820

13145,5

6,24

2001

15.663

20.430

860

18046,5

4,77

2002

20.430

25.270

1.610

22850

7,05

2003

25.270

34.120

1.910

29695

6,43

2004

34.120

42.570

2.600

38345

6,78

2005

42.570

50.500

3.000

46535

6,45

2006

50.500

63.200

3.795

56850

6,68


Nguồn BHXH Việt Nam


Lợi suất bình quân trong đầu tư của BHXH Việt Nam trong vòng 10 năm:

8,16%+8,13%+7,39%+6,24%+4,77%+7,05%+6,43%+6,78%+6,45%+6,68%

10

= 6,805%

Xem tất cả 80 trang.

Ngày đăng: 01/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí